BÀI TẬP NHÓM MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM – TXLLDL01

Please follow and like us:

facebook tại đây

BÀI TẬP NHÓM

MÔN: ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG CỦA ĐẢNG CÔNG SẢN VIỆT NAM

– TXLLDL01

Đề số 5 : Phân tích những căn cứ để Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới? Anh(chị) hãy nêu suy nghĩ của mình khi nghiên cứu đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới.

Bài Làm

Phân tích những căn cứ để Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới:

Các căn cứ để Đảng cộng sản Việt Nam đề ra đường lối đối ngoại, hội nhập quốc tế thời kỳ đổi mới được chia thành các căn cứ:

+ Quốc tế

+ Trong nước

Sau đây nhóm em xin phân tích cụ thể từng căn cứ.

Thứ nhất:  Tình hình thế giới từ giữa thập niên 80 của thế kỉ XX: Từ giữa những năm 1980, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ (đặc biệt là công nghệ thông tin) tiếp tục phát triển mạnh mẽ, tác động sâu sắc đến mọi mặt đời sống của các quốc gia, dân tộc.

Các nước xã hội chủ nghĩa lâm vào khủng hoảng sâu sắc. Đến năm 1991, chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô sụp đổ dẫn đến những biến đổi to lớn về quan hệ quốc tế. Trật tự thế giới được hình thành từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai trên cơ sở hai khối đối lập do Liên Xô và Hoa Kì đứng đầu (trật tự thế giới hai cực) tan rã, mở ra thời kì hình thành một trật tự thế giới mới.

 Trên phạm vi thế giới, những cuộc chiến tranh cục bộ, xung đột, tranh chấp vẫn còn, nhưng xu thế chung của thế giới là hoà bình và hợp tác phát triển.

Các quốc gia, các tổ chức và lực lượng chính trị quốc tế thực hiện điều chỉnh chiến lược đối nội, đối ngoại và phương thức hành động cho phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ bên trong và đặc điểm của thế giới.

 Xu thế chạy đua phát triển kinh tế khiến các nước, nhất là những nước đang phát triển đã đổi mới tư duy đối ngoại, thực hiện chính sách đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ quốc tế; mở rộng và tăng cường liên kết, hợp tác với các nước phát triển để tranh thủ vốn, kĩ thuật, công nghệ, mở rộng thị trường, học tập kinh nghiệm tổ chức, quản lí sản xuất kinh doanh.

Các nước đổi mới tư duy về quan niệm sức mạnh, vị thế quốc gia. Thay thế cách đánh giá cũ, chủ yếu dựa vào sức mạnh quân sự, bằng các tiêu chí tổng hợp trong đó sức mạnh kinh tế được đặt ở vị trí quan trọng hàng đầu.

Xu thế toàn cầu hóa và tác động của nó: Dưới góc độ kinh tế, toàn cầu hóa là quá trình lực lượng sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế phát triển vượt qua các rào cản bởi biên giới quốc gia và khu vực, lan tỏa ra phạm vi toàn cầu, trong đó hàng hóa, vốn, tiền tệ, thông tin, lao động… vận động thông thoáng; sự phân công lao động mang tính quốc tế; quan hệ kinh tế giữa các quốc gia, khu vực đan xen nhau, hình thành mạng lưới quan hệ đa chiều.

Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng (tháng 1-2011) nhận định: “Toàn cầu hóa và cách mạng khoa học – công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức”.

Những tác động tích cực của toàn cầu hóa: trên cơ sở thị trường được mở rộng, trao đổi hàng hóa tăng mạnh đã thúc đẩy phát triển sản xuất của các nước; nguồn vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lí cùng các hình thức đầu tư, hợp tác khác mang lại lợi ích cho các bên tham gia hợp tác. Mặt khác, toàn cầu hóa làm tăng tính phụ thuộc lẫn nhau, nâng cao sự hiểu biết giữa các quốc gia, thuận lợi cho việc xây dựng môi trường hoà bình, hữu nghị và hợp tác giữa các nước.

Những tác động tiêu cực của toàn cầu hóa: xuất phát từ việc các nước công nghiệp phát triển thao túng, chi phối quá trình toàn cầu hóa tạo nên sự bất bình đẳng trong quan hệ quốc tế và làm gia tăng sự phân cực giữa nước giàu và nước nghèo, Đại hội lần thức IX của Đảng đã chỉ rõ: “Toàn cầu hóa kinh tế là một xu thế khách quan, lôi cuốn ngày càng nhiều nước tham gia; xu thế này đang bị một số nước phát triển và các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia chi phối, chứa đựng nhiều mâu thuẫn, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực, vừa có hợp tác vừa có đấu tranh” . Đại hội XI của Đảng nhận định: “Toàn cầu hóa kinh tế tiếp tục phát triển về quy mô, mức độ và hình thức biểu hiện với những tác động tích cực và tiêu cực, cơ hội và thách thức đan xen rất phức tạp” .

Thực tế cho thấy rằng, các nước muốn tránh khỏi nguy cơ bị biệt lập, tụt hậu, kém phát triển thì phải tích cực, chủ động tham gia vào quá trình toàn cầu hóa, đồng thời phải có bản lĩnh cân nhắc một cách cẩn trọng các yếu tố bất lợi để vượt qua.

Dự báo tình hình thế giới trong những năm sắp tới, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhận định: trên thế giới “Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ, bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính – tiền tệ, điện tử – viễn thông, sinh học, môi trường… còn tiếp tục gia tăng”

Tình hình khu vực châu Á – Thái Bình Dương từ những năm 1990 có nhiều chuyển biến mới: Trước hết, trong khu vực tuy vẫn tồn tại những vấn đề bất ổn như vấn đề hạt nhân, vấn đề tranh chấp chủ quyền biển đảo, tài nguyên và việc một số nước trong khu vực tăng cường vũ trang, nhưng châu Á – Thái Bình Dương vẫn được đánh giá là khu vực ổn định; hai là, châu Á – Thái Bình Dương có tiềm lực lớn và năng động về phát triển kinh tế. Xu thế hoà bình và hợp tác trong khu vực phát triển mạnh.

“Khu vực châu Á – Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động, nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò ngày càng quan trọng trong khu vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức”

Thứ hai: Tình hình trong nước: Sự bao vây, chống phá của các thế lực thù địch đối với Việt Nam từ nửa cuối thập niên 70 của thế kỉ XX tạo nên tình trạng căng thẳng, mất ổn định trong khu vực và gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển của cách mạng Việt Nam, là một trong những nguyên nhân dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội nghiêm trọng ở nước ta. Vì vậy vấn đề giải tỏa tình trạng đối đầu, thù địch, phá thế bị bao vây, cấm vận, tiến tới bình thường hóa và mở rộng quan hệ hợp tác với các nước, tạo môi trường quốc tế thuận lợi để tập trung xây dựng kinh tế là nhu cầu cần thiết và cấp bách đối với nước ta.

Mặt khác, do hậu quả nặng nề của chiến tranh và các khuyết điểm chủ quan, nền kinh tế Việt Nam lâm vào khủng hoảng nghiêm trọng. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới là một trong những thách thức lớn đối với cách mạng Việt Nam. Vì vậy, nhu cầu chống tụt hậu về kinh tế đặt ra gay gắt. Để thu hẹp khoảng cách phát triển giữa nước ta với các quốc gia khác, ngoài việc phát huy tối đa các nguồn lực trong nước, cần phải tranh thủ các nguồn lực bên ngoài, trong đó việc mở rộng và tăng cường hợp tác kinh tế với các nước và tham gia vào cơ chế hợp tác đa phương có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.

Những đặc điểm, xu thế quốc tế và yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam nêu trên là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xác định quan điểm và hoạch định chủ trương, chính sách đối ngoại thời kì đổi mới.

Anh(chị) hãy nêu suy nghĩ của mình khi nghiên cứu đường lối đối ngoại của Đảng ta thời kỳ đổi mới:

Sau khi nghiên cứu đường lối đối ngoại của đảng ta thời kỳ đổi mới nhóm em đưa ra một số suy nghĩ, nhận xét như sau:

Chúng ta có thể thấy nước ta đã có những tiến bộ và phát triển vượt bậc trong thời gian qua và đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực đối ngoại. Điều này cho thấy đường nối đúng đắn của đảng ta đề ra trong thời kỳ đổi mới.  Về mặt kinh tế nước ta thực hiện chính sách mở cửa đón nhận xu thế toàn cầu hóa kinh tế của thế giới. Điều này giúp nước ta có được những nguồn lực cần thiết về khoa học công nghệ, nguồn vốn và con người, thiết lập được mối quan hệ kinh tế với các nước trong khu vực và trên thế giới từ đó phát triển được kinh tế trong nước. Với đường nối cởi mở trong tạo dựng và xây dựng mối quan hệ với các nước khác trên thế giới dựa trên cơ sở hòa bình, hợp tác các bên cùng có lơi chúng ta đã nhận được sự tôn trọng từ bạn bè quốc tế.  Đường lối đối ngoại xuyên suốt của Việt Nam là độc lập, tự chủ, vì hòa bình, hợp tác và phát triển. Với tinh thần đó, khi giải quyết vấn đề liên quan đến biên giới lãnh thổ, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên định bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích dân tộc lên trên hết và cố gắng tìm giải pháp hòa bình có thể. Nhờ những định hướng đúng đắn mà công tác đối ngoại nước ta đã đem lại nhiều thành tựu cho nước ta thời kỳ đổi mới. Cụ thể một số thanh tựu nổi bật như sau:

Một là, phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Việc tham gia kí Hiệp định Paris (ngày 23-10-1991) về một giải pháp toàn diện cho vấn đề Campuchia đã mở ra tiền đề để Việt Nam thúc đẩy quan hệ với khu vực và cộng đồng quốc tế.

Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc (ngày 10-11-1991); tháng 11-1992, Chính phủ Nhật Bản quyết định nối lại viện trợ ODA cho Việt Nam; bình thường hóa quan hệ với Hoa Kì (ngày 11-7-1995).

Tháng 7-1995 Việt Nam gia nhập ASEAN, đánh dấu sự hội nhập của nước ta với khu vực Đông Nam Á.

Hai là, giải quyết hoà bình các vấn đề biên giới, lãnh thổ, biển đảo với các nước liên quan. Đã đàm phán thành công với Malayxia về giải pháp “gác tranh chấp, cùng khai thác” ở vùng biển chồng lấn giữa hai nước. Thu hẹp diện tranh chấp vùng biển giữa nước ta và các nước ASEAN. Đã kí với Trung Quốc: Hiệp ước về phân định biên giới trên bộ, Hiệp định phân định Vịnh Bắc Bộ và Hiệp định hợp tác về nghề cá.

Ba là, mở rộng quan hệ đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa.

Lần đầu tiên trong lịch sử, Việt Nam có quan hệ chính thức với tất cả các nước lớn, kể cả 5 nước Uỷ viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc; tất cả các nước lớn đều coi trọng vai trò của Việt Nam ở Đông Nam Á. Đã kí hiệp định khung về hợp tác với EU (năm 1995); năm 1999 kí thoả thuận với Trung Quốc khuôn khổ quan hệ “Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”; tháng 5-2008 thiết lập quan hệ với đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam – Trung Quốc; ngày 13/7/2001, kí kết Hiệp định thương mại song phương Việt Nam  – Hoa Kì; tuyên bố về quan hệ đối tác chiến lược với Nga (năm 2001); khuôn khổ quan hệ đối tác tin cậy và ổn định lâu dài với Nhật Bản (năm 2002). Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 171 nước trên thế giới.

Tháng 10-2007, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã bầu Việt Nam làm uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an nhiệm kì 2008-2009. Năm 2010 Việt Nam đã đảm nhiệm thành công cương vị chủ tịch ASEAN; tích cực tham gia và có những đóng góp cho nhiều hoạt động đa phương khu vực và trên thế giới, như tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu về an ninh hạt nhân và giải trừ vũ khí hạt nhân, phòng chống tội phạm, biến đổi khí hậu…

Bốn là, tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế.

Năm 1993, Việt Nam khai thông quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ quốc tế như: Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB); sau khi gia nhập ASEAN (tháng 7/1995) Việt Nam đã tham gia Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA); tháng 3/1996, tham gia Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM) với tư cách là thành viên sáng lập; tháng 11/1998, gia nhập tổ chức Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á – Thái Bình Dương (APEC); ngày 11/1/2007, Việt Nam được kết nạp làm thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).

Năm là, mở rộng thị trường, tiếp thu khoa học công nghệ và kĩ năng quản lí.

Về mở rộng thị trường: Đến năm 2010, Việt Nam có quan hệ thương mại, đầu tư với khoảng 230 nước và vùng lãnh thổ, đưa tỉ lệ giá xuất nhập khẩu so với GDP lên trên 170%. Thực tế cho thấy, nền kinh tế nước ta đã gắn kết chặt chẽ vào nền kinh tế thế giới. Nếu năm 1986 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam chỉ đạt 789 triệu USD, đến năm 2007 đạt 48 tỉ USD; năm 2008 đạt khoảng 62,9 tỉ USD1 ; năm 2010 ước đạt 71,6 tỉ USD.

Hội nhập quốc tế đã tạo cơ hội để nước ta tiếp cận những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới. Nhiều công nghệ hiện đại, dây chuyền sản xuất tiên tiến được sử dụng đã tạo nên bước phát triển mới trong các ngành sản xuất. Đồng thời, thông qua các dự án liên doanh hợp tác với nước ngoài, các doanh nghiệp chủ nghĩa đã tiếp nhận được nhiều kinh nghiệm quản lí sản xuất hiện đại.

Sáu là, từng bước đưa hoạt động của các doanh nghiệp và cả nền kinh tế vào môi trường cạnh tranh.

Trong quá trình hội nhập, nhiều doanh nghiệp đã đổi mới công nghệ, đổi mới quản lí, nâng cao năng suất và chất lượng, không ngừng vươn lên trong cạnh tranh để tồn tại và phát triển.

Tuy đạt được nhiều thành tích nổi bật và có định hướng đúng đắn nhưng công tác đối ngoại của nước ta vẫn tồn tại nhiều hạn chế được bộc lộ trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại.

Trong quan hệ với các nước, nhất là các nước lớn, chúng ta còn lúng túng, bị động. Chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan xen, tuỳ thuộc lẫn nhau với các nước.

Một số chủ trương, cơ chế, chính sách chậm được đổi mới so với yêu cầu mở rộng quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế; hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh, không đồng bộ, gây khó khăn trong việc thực hiện các cam kết của các tổ chức quốc tế.

Chưa hình thành được một kế hoạch tổng thể và dài hạn về hội nhập quốc tế và một lộ trình hợp lí cho việc thực hiện các cam kết.

Doanh nghiệp nước ta đầu hết quy mô nhỏ, yếu kém cả về quản lí và công nghệ; trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, trình độ trang thiết bị lạc hậu; kết cấu hạ tầng và các ngành dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất kinh doanh đều kém phát triển và có chi phí cao hơn các nước khác trong khu vực.

Đội ngũ cán bộ lĩnh vực đối ngoại nhìn chung chưa đáp ứng được nhu cầu cả về số lượng và chất lượng; cán bộ doanh nghiệp ít hiểu biết về luật pháp quốc tế, về kĩ thuật kinh doanh.

Đại hội XI của Đảng đã chỉ ra những hạn chế, như: “Công tác nghiên cứu, dự báo chiến lược về đối ngoại có mặt còn hạn chế. Sự phối hợp giữa đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà nước và ngoại giao nhân dân, giữa các lĩnh vực chính trị, kinh tế và văn hóa đối ngoại chưa thật đồng bộ”

Như vậy, chúng ta có thể thấy trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của đảng còn phát sinh nhiều hạn chế. Việc này phản ánh thực tế cốt lõi của nước ta về vấn đề con người và tư tưởng bao cấp vẫn còn tồn tại. Là một nước nghèo bị tàn phá bởi các cuộc chiến tranh từ thế kỷ trước cùng với trải qua thời kỳ đóng cửa đất nước, nền kinh tế bao cấp tập trung nên việc hội nhập quốc tế  và thực hiện đường lối chính sách đối ngoại của đảng còn nhiều bất cập nảy sinh. Trong tương lai về dài hạn, thế giới đang trải qua quá trình tái cấu trúc toàn diện, từ cơ cấu sản xuất, tiêu dùng đến cơ cấu thị trường, tiền tệ… Mặt khác, những tiến bộ vượt bậc của khoa học công nghệ đang mở ra cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư, đưa loài người lên tầm cao phát triển mới. Như vậy, nền kinh tế nước ta vừa phải giải quyết những vấn đề trước mắt đồng thời phải đối mặt với những biến chuyển hết sức sâu rộng trong nền kinh tế thế giới. Nếu nước ta không vượt qua được những thách thức mới mẻ và phức tạp này thì nguy cơ tụt hậu sẽ càng lớn hơn.

Để tồn tại và phát triển chúng ta cần thay đổi và hoàn thiện không ngừng phát huy mặt tích cực và hạn chế mặt tiêu cực trong quá trình thực hiện đường lối đối ngoại của đảng ta nhằm đạt được những mục đích về phát triển kinh tế ổn định trính trị hòa bình quốc gia và nâng cao vị thế của nước ta trên trường quốc tế.

Tài liệu tham khảo:

  1. Giáo trình “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt Nam” – NXB Chính trị quốc gia. H.2011.
  2. “Một số chuyên đề về môn học Đường lối cách mạng Đảng Công sản Việt Nam” – Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, H.2008;
  3. “Đường lối cách mạng của Đảng cộng sản Việt nam” – Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân, H.2008
  4. Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
Please follow and like us:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *