Giá trị hàng hóa được quyết định bởi:
Hao phí lao động để sản xuất hàng hóa gồm hao phí về lao động vật hóa dưới dạng nhà xưởng, máy móc, công cụ lao động, nguyên nhiên vật liệu…hao phí lao động vật hóa được chuyển sang sản phẩm dưới dạng khấu hao về máy móc, nhà xưởng, công cụ lao động, chi phí về nguyên, nhiên vật liệu.
Hao phí lao động sống của người lao động tạo ra giá trị mới, được kết tinh trong hàng hóa.
Giá trị hàng hóa:
Một vật, khi đã là hàng hoá thì nhất thiết nó phải có giá trị sử dụng. Nhưng không phải bất cứ vật gì có giá trị sử dụng cũng đều là hàng hoá. Như vậy, một vật muốn trở thành hàng hóa thì giá trị sử dụng của nó phải là vật được sản xuất ra để bán, để trao đổi, cũng có nghĩa là vật đó phải có giá trị trao đổi. Trong kinh tế hàng hoá, giá trị sử dụng là cái mang giá trị trao đổi. Muốn hiểu được giá trị hàng hóa phải đi từ giá trị trao đổi.
+ Giá trị trao đổi:
Khái niệm: Giá trị trao đổi là một quan hệ về số lượng, là một tỷ lệ theo đó những giá trị sử dụng loại này được trao đổi với những giá trị sử dụng loại khác.
Ví dụ: 1 m vải = 10 kg thóc
Hai vật thể khác nhau có thể trao đổi được với nhau thì giữa chúng phải có cơ sở chung nào đó. Vì các hàng hóa khác nhau về giá trị sử dụng nên không thể lấy giá trị sử dụng để đo lường các hàng hóa. Các hàng hóa khác nhau chỉ có một thuộc tính chung làm cho chúng có thể so sánh được với nhau trong khi trao đổi: các hàng hóa đều là sản phẩm của lao động, sản phẩm của lao động là do lao động xã hội hao phí để sản xuất ra hàng hóa đó. Thực chất các chủ thể khi trao đổi hàng hóa với nhau là trao đổi lao động chứa đựng trong hàng hóa. Trong ví dụ trên, giả sử người thợ dệt làm ra được 1 m vải mất 5 giờ, người nông dân làm ra 10 kg thóc cũng mất 5 giờ. Trao đổi 1 m vải lấy 10 kg thóc thực chất là trao đổi 5 giờ lao động sản xuất ra 1 m vải với 5 giờ lao động sản xuất ra 10 kg thóc.
Như vậy, hao phí để sản xuất ra hàng hóa là cơ sở chung của trao đổi gọi là giá trị hàng hóa.
Thước đo xác định lượng giá trị hàng hoá
– Trong thực tế, mỗi chủ thể tham gia sản xuất có thể sản xuất ra cùng một loại hàng hóa với những lượng thời gian lao động khác nhau – tức là lượng thời gian lao động cá biệt của họ khác nhau.
– Lượng giá trị cá biệt của một đơn vị hàng hóa được quyết định bởi lượng thời gian lao động cá biệt của chính người sản xuất ra nó, trong khi đó, lượng giá trị XÃ HỘI (thường được gọi tắt là lượng giá trị) của một đơn vị hàng hóa lại bị quyết định bởi lượng thời gian lao động xã hội cần thiết (hay hao phí lao động xã hội cần thiết) để sản xuất ra hàng hóa đó mà không tính bằng lượng thời gian lao động cá biệt của bản thân người sản xuất ra nó.
– Thời gian lao động xã hội cần thiết ( còn gọi là thời gian lao động xã hội tất yếu) là lượng thời gian cần thiết để sản xuất ra một hàng hoá trong một điều kiện bình thường, với một trình độ lao động thành thạo trung bình, cường độ trung bình so với một hoàn cảnh xã hội nhất định.
– Thông thường, thời gian lao động xã hội cần thiết được tính theo trung bình cộng NHỮNG lượng thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận lượng hàng hóa ấy trên thị trường.
Thời gian lao động xã hội cần thiết = Tổng thời gian lao động cá biệt của những người cung cấp đại bộ phận lượng hàng hoá đó/Tổng lượng hàng hoá do họ sản xuất ra (và nó khác với trung bình cộng tất cả các thời gian lao động cá biệt của tất cả những người cùng sản xuất mặt hàng đó).
– Cơ cấu lượng giá trị của hàng hoá gồm 2 bộ phận:
+ Bộ phận giá trị cũ (hao phí lao động quá khứ sản xuất ra TLSX – tồn tại trong TLSX được chuyển vào sản phẩm).
+ Bộ phận giá trị mới (hao phí lao động sống hiện tại của người lao động kết tinh trong sản phẩm).