Có 7 nguyên tắc của CPQT ạ!
Cụ thể các nguyên tắc đó như sau ạ!
1. Nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia
Chủ quyền là thuộc tính chính trị – pháp lý không thể tách rời của mỗi quốc gia, bao gồm hai nội dung chủ yếu là quyền tối cao của quốc gia trong phạm vi lãnh thổ của mình và quyền độc lập của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Trong phạm vi lãnh thổ của mình, quốc gia thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp mà không có bất ký sự can thiệp nào từ bên ngoài, thông qua những quyết định về mọi mặt vấn đề đời sống trên cơ sở ý kiến chủ quyền của nhân dân.
Trong quan hệ quốc tế, quyền độc lập của một quốc gia thể hiện qua quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội và đối ngoại của quốc gia không có sự áp đặt từ chủ thể khác, trên cơ sở tôn trọng chủ quyền của mọi quốc gia trong cộng đồng quốc tế. Như vậy, các quốc gia dù lớn hay nhỏ, giàu hay nghèo, có tiềm lực mạnh hay yếu đều hoàn toàn bình đẳng với nhau về chủ quyền. Sự thực hiện chủ quyền quốc gia chỉ có thể trọn vẹn khi quốc gia vừa đạt được lợi ích của mình mà không xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của chủ thể quốc tế khác, tức là việc thực hiện chủ quyền phải gắn với những giới hạn cần thiết. Sự giới hạn chủ quyền đó có thể do quốc gia tự xác định hoặc được xác định bằng những thỏa thuận quốc tế của quốc gia với các chủ thể khác của luật quốc tế.
Bình đẳng về chủ quyền của các quốc gia là nền tảng của quan hệ quốc tế hiện đại. Trật tự quốc tế chỉ có thể được duy trì nếu các quyền bình đẳng của các quốc gia tham gia trật tự đó được hoàn toàn đảm bảo. Hiến chương Liên hợp quốc đã lấy nguyên tắc này làm cơ sở cho hoạt động của mình: “Tổ chức Liên hợp quốc dựa trên nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền giữa tất cả các nước thành viên” (khoản 1 Điều 2). Nguyên tắc này là nền tảng quan trọng nhất của toàn bộ hệ thống các nguyên tắc của luật quốc tế hiện đại. Nó được ghi nhận trong điều lệ của các tổ chức thuộc hệ thống Liên hợp quốc, của đại đa số các tổ chức quốc tế phổ cập và tổ chức khu vực, trong nhiều điều ước quốc tế đa phương và song phương và trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng của các hội nghị và tổ chức quốc tế.
Bình đẳng về chủ quyền của quốc gia bao gồm các nội dung chính sau:
– Các quốc gia bình đẳng về mặt pháp lý;
– Mỗi quốc gia có chủ quyền hoàn toàn và đầy đủ;
– Mỗi quốc gia có nghĩa vụ tôn trọng quyền năng chủ thể của các quốc gia khác;
– Sự toàn vẹn lãnh thổ và tính độc lập về chính trị là bất di bất dịch;
– Mỗi quốc gia có quyền tự do lựa chọn và phát triển chế độ chính trị, xã hội, kinh tế và văn hoá của mình;
– Mỗi quốc gia có nghĩa vụ thực hiện đầy đủ và tận tâm các nghĩa vụ quốc tế của mình và tồn tại hoà bình cùng các quốc gia khác.
Theo nguyên tắc bình đẳng chủ quyền mỗi quốc gia đều có các quyền chủ quyền bình đẳng sau:
– Được tôn trọng về quốc thể, sự thống nhất, toàn vẹn lãnh thể về chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá;
– Được tham gia giải quyết các vấn đề có liên quan đến lợi ích của mình;
– Được tham gia các tổ chức quốc tế, hội nghị quốc tế với các lá phiếu có giá trị ngang nhau;
– Được ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế có liên quan;
– Được tham gia xây dựng pháp luật quốc tế, hợp tác quốc tế bình đẳng với các quốc gia khác;
– Được hưởng đầy đủ các quyền ưu đãi, miễn trừ và gánh vác các nghĩa vụ như các quốc gia khác.
Ngày nay, quá trình quốc tế hoá đời sống xã hội, sự hội nhập khu vực và sự hội nhập toàn cầu đã xuất hiện nhiều tổ chức quốc tế phổ cập và khu vực. Các tổ chức này ngày càng có vai trò to lớn trong việc phối hợp hoạt động hợp tác của các quốc gia thành viên. Khi tham gia tổ chức quốc tế, các quốc gia thành viên tự nguyện trao cho tổ chức quốc tế một số thẩm quyền thuộc chủ quyền của mình. Sự trao quyền này không có nghĩa là quốc gia bị hạn chế chủ quyền. Quốc gia khi tự nguyện tham gia tổ chức quốc tế, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên, chịu sự chi phối nhất định của tổ chức quốc tế. Các hoạt động đó phải được hiểu là quốc gia đã triển khai thực hiện chủ quyền của mình (như việc ký kết điều lệ (điều ước quốc tế) và tham gia vào các hoạt động của tổ chức quốc tế). Đồng thời, trong suốt thời gian tham gia tổ chức quốc tế, quốc gia luôn có quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của chính tổ chức quốc tế đó. Việc quốc gia tham gia vào đời sống quốc tế và việc ngày càng nhiều những vấn đề quốc gia đặt dưới sự điều chỉnh quốc tế là nhu cầu của sự hợp tác quốc tế. Chủ quyền không làm cho quốc gia tách biệt hoàn toàn với Cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh thế giới hiện nay, các quốc gia tồn tại trong mối quan hệ tùy thuộc lẫn nhau. Bình đẳng về chủ quyền giữa các quốc gia là cơ sở để trật tự thế giới phát triển theo xu hướng ổn định, hội nhập và tiến bộ.
2. Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực
Quá trình dân chủ hoá đời sống quốc tế tất yếu dẫn đến sự hạn chế dùng sức mạnh hay đe dọa dùng sức mạnh trong quan hệ giữa các chủ thể luật quốc tế với nhau. Khoản 4 Điều 2 Hiến chương Liên hợp quốc quy định “Tất cả các nước thành viên Liên hợp quốc trong quan hệ quốc tế không được đe dọa dùng vũ lực hoặc dùng vũ lực chống lại sự toàn vẹn lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào, hoặc nhằm những mục đích khác không phù hợp với mục đích của Liên hợp quốc”. Theo quy định nêu trên thì việc một chủ thể dùng các loại sức mạnh nhằm khống chế, đe dọa tấn công, tấn công, hoặc cưỡng bức trái pháp luật quốc tế đối với một chủ thể khác trong quan hệ quốc tế là hành vi vi phạm luật quốc tế.
Sau này, nguyên tắc cấm dùng vũ lực và đe dọa dùng vũ lực trong Hiến chương đã được cụ thể hoá trong một loạt các văn bản quốc tế quan trọng được thông qua trong khuôn khổ Liên hợp quốc như Tuyên bố về những nguyên tắc của luật quốc tế điều chỉnh quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc gia phù hợp với Hiến chương Liên hợp quốc (do Đại hội đồng thông qua năm 1970); Tuyên bố của Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1974 về định nghĩa xâm lược, Định ước của Hội nghị Henxinki năm 1975 về An ninh và hợp tác của các nước châu Âu; Tuyên bố năm 1987 về việc Nâng cao hiệu quả của nguyên tắc khước từ đe dọa dùng sức mạnh hoặc đe dọa dùng sức mạnh trong quan hệ quốc tế…
Định ước Henxinki (Helsinki) năm 1975 quy định, các quốc gia tham gia sẽ “khước từ sử dụng mọi biện pháp mang tính cưỡng bức đối với quốc gia, thành viên khác, khước từ tiến hành hành vi cưỡng bức về kinh tế”. Như vậy, khái niệm vũ lực theo luật quốc tế hiện đại không chỉ bó hẹp trong khuôn khổ là sử dụng hoặc đe dọa sử dụng lực lượng vũ trang để chống lại chủ quyền, độc lập của quốc gia khác mà còn mở rộng việc nghiêm cấm sử dụng các sức mạnh hay đe dọa dùng sức mạnh phi vũ trang khác.
Nguyên tắc cấm đe dọa dùng vũ lực hay dùng vũ lực trước tiện nghiêm cấm chiến tranh xâm lược. Theo Định nghĩa xâm lược năm 1974, việc một quốc gia sử dụng lực lượng vũ trang trước tiên được coi là hành động gây chiến tranh xâm lược, là tội ác quốc tế, làm phát sinh trách nhiệm pháp lý quốc tế của quốc gia và trách nhiệm hình sự quốc tế của các tội phạm chiến tranh.
Ngay từ những năm 70 của thế kỷ XX, luật quốc tế đã đặc biệt nhấn mạnh tới nghĩa vụ của các quốc gia phải khước từ việc sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống lại sự bất khả xâm phạm lãnh thổ, biên giới của quốc gia khác, Nội dung của nguyên tắc này bao gồm:
– Cấm xâm chiếm lãnh thổ quốc gia khác trái với các quy phạm của luật quốc tế;
– Cấm các hành vi trấn áp bằng vũ lực;
– Không được cho quốc gia khác sử dụng lãnh thổ nước mình để tiến hành xâm lược chống quốc gia thứ ba;
– Không tổ chức, xúi giục, giúp đỡ hay tham gia vào nội chiến hay các hành vi khủng bố tại quốc gia khác;
– Không tổ chức hoặc khuyến khích việc tổ chức các băng nhóm vũ trang, lực lượng vũ trang phi chính quy, lính đánh thuê để đột nhập vào lãnh thổ quốc gia khác.
Hiến chương Liên hợp quốc tuy không quy định cụ thể các biện pháp vũ lực nào là bất hợp pháp nhưng lại quy định các biện pháp vũ lực hợp pháp để chống lại xâm lược, thực hiện quyền tự vệ nhằm bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia. Các điều từ 42 đến 47 và Điều 51 của Hiến chương quy định về những trường hợp sử dụng lực lượng vũ trang hợp pháp còn các điều 41 và 50 thì lại quy định về những trường hợp sử dụng sức mạnh phi vũ trang hợp pháp. Hiến chương Liên hợp quốc chỉ quy định hai trường hợp sử dụng hợp pháp lực lượng vũ trang vào mục đích tự vệ (Điều 51) và theo quyết định của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc khi có đe dọa hòa bình, xâm phạm hoà bình hoặc bị xâm lược (các điều từ 39 đến 42). Sử dụng lực lượng vũ trang để tự vệ chỉ được Hiến chương cho phép khi có sự tấn công vũ trang chống lại quốc gia. Điều 51 của Hiến chương còn cấm một quốc gia sử dụng lực lượng vũ trang chống lại quốc gia khác khi quốc gia này chỉ sử dụng các biện pháp kinh tế hoặc chính trị (hành vi tự vệ phải tương xứng với hình thức tấn công). Như vậy, quyền tự vệ vũ trang chỉ áp dụng khi có sự tấn công vũ trang của quốc gia khác.
Riêng đối với Hội đồng bảo an, Điều 42 Hiến chương quy định, tuỳ từng trường hợp nếu những biện pháp phi quân sự được khuyến nghị không đủ để giải quyết tranh chấp thì Hội đồng bảo an có thể tiến hành các biện pháp cần thiết, như sử dụng lực lượng không quân, hải quân hoặc lục quân để duy trì hoặc lập lại hòa bình và an ninh quốc tế. Những biện pháp này bao gồm cả biểu dương lực lượng, bao vây phong toả và tiến hành chiến dịch bằng không quân, hải quân hoặc lục quân.
3. Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế
Nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp quốc tế là nguyên tắc gắn liền với nguyên tắc cấm dùng vũ lực hay đe dọa dùng vũ lực. Trong thực tế, tranh chấp luôn tiềm ẩn và phát sinh bất cứ lúc nào do những quan điểm trái ngược, mâu thuẫn nhau của các chủ thể luật quốc tế và không thể thống nhất, thỏa thuận được với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ của các bên. Nguyên nhân sâu xa của sự tranh chấp này là sự xung đột về quyền lợi của các quốc gia hoặc các nhóm quốc gia hoặc sự khác biệt về góc nhìn, phương hướng giải quyết các vấn đề quốc tế.
Trước Chiến tranh thế giới lần thứ 2, luật quốc tế đã ghi nhận một số biện pháp giải quyết tranh chấp quốc tế một cách hòa bình. Tuy nhiên, ở thời điểm đó, phương pháp giải quyết tranh chấp quốc tế một cách hòa bình chưa được pháp luật hóa và trở thành nguyên tắc có tính bắt buộc chung như bây giờ. Lần đầu tiên nguyên tắc hòa bình giải quyết tranh chấp được ghi nhận là ở khoản 3 Điều 2 của Hiến chương Liên hợp quốc và trở thành nguyên tắc bắt buộc chung cho tất cả các chủ thể quốc tế. Theo đó, tất các các quốc gia thành viên của Liên hợp quốc phải có nghĩa vụ giải quyết các tranh chấp quốc tế bằng các biện pháp hòa bình. Hiến chương Liên hợp quốc cũng quy định cụ thể các biện pháp hòa bình mà các thành viên Liên hợp quốc với tư cách là bên tham gia vào tranh chấp quốc tế được phép lựa chọn. Điều 33 Hiến chương quy định: “Các bên tham gia tranh chấp quốc tế trước tiên phải cố gắng giải quyết tranh chấp bằng các biện pháp như: đàm phán, điều tra, trung gian, hòa giải, trọng tài, tòa án, thông qua các cơ quan hay tổ chức quốc tế khu vực hoặc bằng những biện pháp hòa bình khác do các bên lựa chọn.” Các bên có quyền tự do lựa chọn các biện pháp hòa bình được nêu trong Điều 33 để giải quyết các tranh chấp sao cho phù hợp và hiệu quả. Thực tiễn cho thấy phương pháp giải quyết tranh chấp đàm phán là phương pháp thường xuyên được các quốc gia sử dụng để giải quyết các tranh chấp hoặc bất đồng.
Cùng với sự phát triển của quá trình hội nhập khu vực và quốc tế cũng như việc hình thành các khu vực thương mại tự do, những năm gần đây, cộng đồng quốc tế thường sử dụng biện pháp thông qua tổ chức khu vực, tổ chức phổ cập để giải quyết các tranh chấp quốc tế trong và ngoài khu vực. Các tổ chức khu vực tiêu biểu phải kể đến là EU và ASEAN.
4. Nguyên tắc không can thiệp và công việc nội bộ của quốc gia khác
Xuất hiện lần đầu trong hiến pháp của một số nước tư bản thời kỳ cách mạng tư sản, nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của chính phủ, dân tộc khác vẫn còn nhiều hạn chế và chưa được phát triển thành một nguyên tắc chung do tình hình thế giới lúc đó vẫn còn chịu ảnh hưởng của nguyên tắc vũ lực – dùng quân sự để thể hiện sức mạnh.
Cho đến năm 1945, Liên hợp quốc ra đời, Hiến chương của Liên hợp quốc đã pháp luật hóa nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Theo khoản 7 Điều 2 “Tổ chức Liên hợp quốc không có quyền can thiệp vào công việc thực chất thuộc thẩm quyền nội bộ của bất kỳ quốc gia nào”.
Dưới tác động mạnh mẽ của phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc, nguyên tắc không can thiệp vào nội bộ của quốc gia khác còn được ghi nhận trong Nghị quyết về nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ thông qua năm 1965, với việc “Tuyên bố cấm can thiệp vào công việc nội bộ, bảo vệ độc lập và chủ quyền của các quốc gia.”
Ngoài ra, nguyên tắc này còn được ghi nhận trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng khác như Tuyên bố của Liên hợp quốc về trao trả độc lập cho các nước và các dân tộc thuộc địa năm 1960, Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị các nước Á Phi năm 1955, Định ước cuối cùng của Hội nghị Henxinki về An ninh hợp tác châu Âu năm 1975, Hiệp định Genève năm 1954 về Việt Nam, Hiệp định Paris về chấm dứt chiến tranh và lập lại hòa bình ở Việt Nam và nhiều văn bản quốc tế quan trọng khác.
Nội dung chủ yếu của nguyên tắc không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác bao gồm:
– Cấm can thiệp vũ trang và các hình thức can thiệp khác hoặc đe dọa can thiệp khác nhằm chống lại chủ quyền, nền tảng chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của quốc gia.
– Cấm dùng các biện pháp kinh tế, chính trị và các biện pháp khác để bắt buộc quốc gia khác phụ thuộc vào mình.
– Cấm tổ chức, khuyến khích các phần tử phá hoại hoặc khủng bố nhằm lật đổ chính quyền của quốc gia khác.
– Cấm can thiệp vào cuộc đấu tranh nội bộ ở quốc gia khác.
– Tôn trọng quyền của mỗi quốc gia tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa phù hợp với nguyện vọng của dân tộc.
Có thể thấy được rằng, công việc nội bộ của quốc gia là các công việc thuộc thẩm quyền quốc gia điều chỉnh các mối quan hệ xã hội và các phương diện khác như kinh tế, chính trị, văn hóa, giáo dục, y tế… gộp chung lại là các hoạt động đối nội và đối ngoại. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý rằng, công việc nội bộ thuộc thẩm quyền của quốc gia và sự tham gia của cộng đồng quốc tế không tồn tại riêng biệt mà có sự đan xen lẫn nhau, ví dụ như công việc do quốc gia tiến hành tuy nhiên được pháp luật quốc tế điều chỉnh qua những quy tắc chung thì không thể nói rằng đó là việc nội bộ của quốc gia mà từ chối sự tham gia của cộng đồng quốc tế được.
Về nguyên tắc, luật quốc tế không điều chỉnh các vấn đề thuộc nội bộ của quốc gia. Do đó, bất kỳ biện pháp nào mà các quốc gia hay tổ chức quốc tế sử dụng để cản trở chủ thể của luật quốc tế giải quyết những công việc thuộc thẩm quyền nội bộ của mình đều bị coi là vi phạm pháp luật quốc tế. Tuy nhiên, cũng có ngoại lệ cho nguyên tắc này được quy định tại Chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc quy định có thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong trường hợp có đe dọa hòa bình hoặc hành động xâm lược. Như vậy, nếu Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc xác định một sự kiện nào đó xảy ra trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia mà đe dọa hòa bình, an ninh quốc tế thì sự kiện đó không còn thuần túy là công việc nội bộ của quốc gia và hành động của Liên hợp quốc can thiệp vào quốc gia đó không được coi là vi phạm nguyên tắc không được can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia.
5. Nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác
Trong luật quốc tế hiện đại, các quốc gia là những thực thể có chủ quyền, bình đẳng với nhau về chủ quyền, hành động với tư cách là chủ thể độc lập, không chịu sự can thiệp của các chủ thể khác. Nhưng xu thế tất yếu của tiến trình phát triển quan hệ quốc tế là sự hội nhập, sự hợp tác trên cơ sở các bên cùng có lợi lại đòi hỏi sự hợp tác chặt chẽ của các quốc gia. Sự hợp tác quốc tế giữa các quốc gia trong tất cả các lĩnh vực không phụ thuộc vào chế độ chính trị, kinh tế, xã hội và nhằm duy trì hoà bình, an ninh quốc tế đã được pháp luật hoá. Theo Hiến chương, các quốc gia có nghĩa vụ “tiến hành hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hoá và nhân đạo trên phạm vi quốc tế cũng như “duy trì hòa bình và an ninh quốc tế bằng cách tiến hành các biện pháp tập thể có hiệu quả”.
Nội dung nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau được quy định rõ trong hai điều 55 và 56 của Hiến chương. Đặc biệt, Điều 55 quy định hai nghĩa vụ của các quốc gia, thành viên Liên hợp quốc là nghĩa vụ hợp tác với nhau để thực hiện tôn chỉ, mục đích của Hiến chương và nghĩa vụ hợp tác với tổ chức Liên hợp quốc để đạt được những mục đích kể trên. Đương nhiên, các hình thức và mức độ hợp tác tuỳ thuộc vào chính bản thân các quốc gia, tùy thuộc vào nhu cầu, điều kiện vật chất và khả năng sẵn sàng thích ứng của hệ thống pháp luật trong nước thực thi những nghĩa vụ quốc tế mà quốc gia phải gánh vác.
Nghĩa vụ hợp tác còn thể hiện ở việc các quốc gia phải hành động phù hợp với các nguyên tắc của Liên hợp quốc. Điều này có nghĩa là các quốc gia phải thể hiện nỗ lực giải quyết các vấn đề quốc tế thông qua sự hợp tác, phối hợp với nhau. Ngay cả các quốc gia không phải là thành viên Liên hợp quốc cũng phải tôn trọng các nguyên tắc của Hiến chương vì điều này cần thiết cho công cuộc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế 1970 lần đầu tiên đã quy định cụ thể nội dung của nguyên tắc này, bao gồm:
– Quốc gia phải hợp tác với các quốc gia khác trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế.
– Các quốc gia phải hợp tác để khuyến khích sự tôn trọng chung và tuân thủ quyền con người và các quyền tự do cơ bản khác của cá nhân, thủ tiêu các hình thức phân biệt tôn giáo, sắc tộc, chủng tộc.
– Các quốc gia phải tiến hành quan hệ quốc tế trong lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hoá, thương mại và kỹ thuật, công nghệ theo các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ.
– Các quốc gia thành viên Liên hợp quốc phải thực hiện các hành động chung hay riêng trong việc hợp tác với Liên hợp quốc theo quy định của Hiến chương.
– Các quốc gia phải hợp tác trong các lĩnh vực kinh tế, xã hội và văn hoá, khoa học, công nghệ nhằm khuyến khích sự tiến bộ về văn hoá, giáo dục, phát triển kinh tế trên toàn thế giới, đặc biệt là tại các nước đang phát triển.
6. Nguyên tắc dân tộc tự quyết
Tôn trọng quyền của mỗi dân tộc được tự do lựa chọn con đường và hình thức phát triển là một trong những cơ sở quan trọng để thiết lập các quan hệ quốc tế. Quyền này được thể hiện nhột cách tập trung nhất trong nguyên tắc dân tộc tự quyết, dựa trên nền tảng chủ quyền dân tộc. Về phương diện pháp lý, chủ quyền dân tộc là quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc đó trong đời sống quốc tế, thể hiện ở tổng thể các quyền thiêng liêng và bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc, được ghi nhận tại các văn bản pháp luật quốc gia và quốc tế. Ngày nay, chủ quyền dân tộc được hiện thực hóa trong đời sống quốc tế thông qua quyền dân tộc cơ bản, là quyền vốn có của mỗi dân tộc, được luật quốc tế ghi nhận và bảo đảm thực hiện, bao gồm:
– Quyền được độc lập của dân tộc;
– Quyền bình đẳng với các dân tộc khác;
– Quyền tự quyết của dân tộc;
– Quyền được sống trong hoà bình, an ninh, phát triển bền vững;
– Quyền được định đoạt tài nguyên thiên nhiên.
Trong lịch sử quan hệ quốc tế, quyền dân tộc tự quyết được hiểu theo nghĩa là việc một dân tộc hoàn toàn tự do trong việc tiến hành cuộc đấu tranh giành độc lập cũng như lựa chọn thể chế chính trị, đường lối phát triển đất nước. Như vậy, quyền dân tộc tự quyết là một trong những nội dung quan trọng của quyền dân tộc cơ bản nhưng trong điều kiện quan hệ quốc tế hiện nay, có sự mở rộng quan niệm về quyền dân tộc tự quyết so với khái niệm nêu trên. Tôn trọng quyền dân tộc tự quyết trở thành nguyên tắc pháp lý quốc tế, được ghi nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc và trong nhiều văn bản quốc tế quan trọng như Tuyên bố về trao trả độc lập chi các nước và dân tộc thuộc địa năm 1960, hai công ước về các quyền dân sự chính trị, quyền kinh tế – xã hội – văn hoá năm 1966, Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế năm 1970.
Trong Hiến chương Liên hợp quốc các quốc gia đã cam kết theo đuổi mục đích “phát triển quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng các nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền và dân tộc tự quyết” (khoản 2 Điều 1). Mục đích này được cụ thể hoá trong nhiều điều khoản của Hiến chương. Ví dụ, Điều 55 đã gắn mục đích trên với nhiệm vụ nâng cao mức Sống, với việc giải quyết các vấn đề quốc tế trong các lĩnh vực kinh tế và xã hội, bảo vệ sức khỏe, giáo dục, văn hoá, tôn trọng các quyền con người v,v..
Tuyên bố của Liên hợp quốc năm 1970 về các nguyên tắc của luật quốc tế khẳng định: “Việc thiết lập một nhà nước độc lập có chủ quyền hay tự đo gia nhập vào nhà nước độc lập khác hoặc liên kết với quốc gia đó, cũng như việc thiết lập bất cứ chế độ chính trị nào do nhân dân tự do quyết định là các hình thức thể hiện quyền dân tộc tự quyết”.
Như vậy, nguyên tác dân tộc tự quyết bao hàm nội dung chính sau đây:
– Được thành lập quốc gia độc lập hay cùng với các dân tộc khác thành lập quốc gia liên bang (hoặc đơn nhất) trên cơ sở tự nguyện;
– Tự lựa chọn cho mình chế độ chính trị, kinh tế, xã hội;
– Tự giải quyết các vấn đề đối nội không có sự can thiệp từ bên ngoài;
– Quyền của các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc tiến hành đấu tranh, kể cả đấu tranh vũ trang để giành độc lập và nhận sự giúp đỡ và ủng hộ từ bên ngoài, kể cả giúp đỡ về quân sự.
– Tự lựa chọn con đường phát triển phù hợp với truyền thống lịch sử văn hoá, tín ngưỡng, điều kiện địa lý…
Tất cả các quyền nêu trên của mỗi dân tộc đều được các dân tộc và quốc gia khác tôn trọng.
7. Nguyên tắc tận tâm, thiện chí thực hiện cam kết quốc tế (Pacta sunt servanda)
Nguyên tắc thiện chí thực hiện cam kết quốc tế xuất hiện rất sớm, từ khi xuất hiện nhà nước và tồn tại dưới hình thức tập quán pháp lý quốc tế (Pacta Sunt Servanda). Ngày nay, nguyên tắc này được ghi nhận trong rất nhiều điều ước quốc tế song phương và địa phương.
Trong Lời mở đầu của Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định sự quyết tâm của các nước thành viên “tạo điều kiện để đảm bảo công lý và sự tôn trọng các nghĩa vụ phát sinh từ điều ước quốc tế và các nguồn khác của luật quốc tế. Theo khoản 2 Điều 2 của Hiến chương thì “tất cả các thành viên Liên hợp quốc thiện chí thực hiện các nghĩa vụ do Hiến chương đặt ra”.
Công ước Viên 1969 về Luật điều ước quốc tế đã khẳng định tính phổ cập của nguyên tắc thiện chí thực hiện cam kết quốc tế. Theo Công ước này thì “mỗi điều ước quốc tế viện hành đều ràng buộc các bên tham gia và đều được các bên thực hiện một cách thiện chí”.
Tuyên bố về các nguyên tắc của luật quốc tế năm 1970 đã Iở rộng hơn nữa phạm vi áp dụng của nguyên tắc này. Theo đó, mỗi quốc gia phải thiện chí thực hiện các nghĩa vụ quốc tế do Hiến chương đặt ra, các nghĩa vụ phát sinh từ các quy phạm và nguyên tắc được công nhận rộng rãi của luật quốc tế. Khi nghĩa vụ theo điều ước quốc tế trái với nghĩa vụ của thành viên Liên hợp quốc theo Hiến chương thì nghĩa vụ theo Hiến chương có giá trị ưu tiên.
Nguyên tắc thiện chí thực hiện cam kết quốc tế chỉ được áp dụng đối với các điều ước quốc tế có hiệu lực, tức là đối với những điều ước được ký kết một cách tự nguyện trên cơ sở bình đẳng.
Bất kỳ một điều ước bất bình đẳng nào cũng xâm phạm chủ quyền quốc gia và Hiến chương Liên hợp quốc, bởi vì Liên hợp quốc được thành lập trên cơ sở bình đẳng về chủ quyền của tất cả các nước thành viên. Tất cả các nước này đã cam kết gánh vác nghĩa vụ “phát triển quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và dân tộc tự quyết”.