Nội dung tư tưởng Hồ Chí Minh về cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam
-
Tính chất nhiệm vụ và mục tiêu của cách mạng giải phóng dân tộc
Phân tích thực tiễn xã hội thuộc địa HCM nhận thấy sự phân hóa giai cấp ở các nước thuộc địa phương Đông không giống như các nước tư bản phương Tây. Các giai cấp ở thuộc địa có sự khác nhau ít nhiều nhưng đều có chung số phận là người nô lệ mất nước. Mâu thuẫn cơ bản và chủ yếu trong các nước Đông là mâu thuẫn giữa dân tộc bị áp bức với chủ nghĩa thực dân và tay sai của chúng. Do vậy, cuộc đấu tranh giai cấp không diễn ra như ở phương Tây mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản . Nếu ở các nước phải tiến hành đấu tranh giai cấp thì các nước thuộc địa trước hết phải tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc.
Đối tượng cách mạng ở thuộc địa không phải là giai cấp bản xứ, không phải là giai cấp địa chủ nói chung mà là chủ nghĩa thực dân và tay sai phản động. Cách mạng thuộc địa trước hết phải “lật đổ ách thống trị của chủ nghĩa đế quốc”, chứ chưa phải là cuộc cách mạng xoá bỏ sự tư hữu, sự bóc lột nói chung.
Ở các nước thuộc địa nông dân là nạn nhân chính bị bóc lột bởi chủ nghĩa đế quốc. Nông dân có hai yêu cầu là độc lập dân tộc và ruộng đất, nhưng họ luôn đặt yêu cầu độc lập dân tộc cao hơn so với yêu cầu ruộng đất. Hay nói cách khác yêu cầu bức thiết của nhân dân các nước thuộc địa là độc lập dân tộc.
Mâu thuẫn chủ yếu ở thuộc địa là mâu thuẫn dân tộc, quy định tính chất và nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng ở thuộc địa là giải phóng dân tộc.
- “Đường cách mệnh”, Người phân loại thành 3 cuộc cách mạng: CMTS, CMVS và CMGPDT và nhấn mạnh tính chất, nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc.
- “Cương lĩnh chính trị đầu tiên” của Đảng Người xác định những nhiệm vụ chính trị, kinh tế, vh – xh, nhưng nổi lên hàng đầu là nhiệm vụ chống đế quốc giành độc lập dân tộc, nó đã bao hàm một phần công cuộc giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
- Hội nghị TW8 (5/1941) do Hồ Chí Minh chủ trì kiên quyết giương cao ngọn cờ giải phóng dân tộc, nhấn mạnh đó là “nhiệm vụ bức thiết nhất”, chủ trương tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất” chỉ tiến hành nhiệm vụ đó mức độ thích hợp nhằm phục vụ cho nhiệm vụ giải phóng dân tộc.
- Trong nhiều bài viết, bài nói thời kỳ kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ, Người tiếp tục khẳng định nhiệm vụ giải phóng dân tộc. “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi, thống nhất độc lập nhất định thành công”.
- Mục tiêu CMGPDT
- – Đánh đổ ách thống trị của chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc và thiết lập chính quyền của nhân dân. Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước, Người tin theo Lênin, quốc tế thứ 3 vì quốc tế thứ 3 có chủ trương giải phóng dân tộc bị áp bức
- – Người xác định mục tiêu cấp thiết ở CM thuộc địa chưa phải là giành quyền lợi riêng biệt ở mỗi giai cấp mà là quyền lợi chung của toàn dân tộc. Phù hợp với xu thế của thời đại CM chống đế quốc, thời đại giải phóng dân tộc, đáp ứng nguyện vọng độc lập, tự do của quần chúng nhân dân.
-
Cách mạng GPDT muốn thắng lợi phải đi theo con đường CM vô sản
Phong trào yêu nước chống thực dân Pháp ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX ông cha ta đã chiến đấu rất anh dũng, sử dụng nhiều con đường khác nhau nhưng đều bị thất bại, đất nước lâm vào “tình hình đen tối tưởng như ko có đường ra”.
=> Điều chứng tỏ rằng, những con đường giải phóng dân tộc dưới ngọn cờ tư tưởng phong kiến hoặc tư tưởng tư sản là không đáp ứng được yêu cầu khách quan là giành độc lập, tự do của dân tộc do lịch sử đặt ra. Chính vì thế mặc dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của ông cha, nhưng Hồ Chí Minh không tán thành các con đường cứu nước ấy, mà quyết tâm ra đi tìm một con đường cứu nước mới
Trong quá trình bôn ba tìm đường cứu nước Hồ Chí Minh đã tìm hiểu và khảo sát thực tiễn các cuộc CM lớn trên TG như CMTS Anh, Pháp, Mỹ…Người đọc tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ, tuyên ngôn dân quyền và nhân quyền của CM Pháp. Người nhận thấy : “ Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ , kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa”. Vì vậy Người không đi theo con đường CMTS.
Hồ Chí Minh thấy được CM tháng mười Nga không chỉ là một cuộc CM vô sản, mà còn là một cuộc CMGPDT. Nó nêu tấm gương sáng về sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa và “mở ra trước mắt họ thời đại CM chống đế quốc, thời đại GPDT”. Người thấy trong lý luận của Lênin một phương hướng mới để giải phóng dân tộc: con đường cách mạng vô sản. Thực chất đây là con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, giải phóng dân tộc gắn liền với giải phóng giai cấp và giải phóng con người “ Chỉ có giải phóng GCVS thì mới giải phóng được dân tộc, cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới”
Như vậy là, vượt qua sự hạn chế về tư tưởng của các sĩ phu và của các nhà cách mạng có xu hướng tư sản đương thời, Hồ Chí Minh đã đến với học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin và lựa chọn khuynh hướng chính trị vô sản. Người khẳng định: “ Muốn cứu nước và GPDT không có con đường nào khác con đường CMVS”.
Cách mạng vô sản trước hết là giành lại độc lập và dần dần từng bước “đi tới xã hội cộng sản”. Lực lượng lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân với Đảng Cộng sản là đội tiền phong . Lực lượng cách mạng là khối đoàn kết toàn dân, nòng cốt là liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và lao động trí óc.Mặt khác, sự nghiệp cách mạng của Việt Nam là một bộ phận khăng khít của cách mạng thế giới, cho nên phải đoàn kết quốc tế.
-
Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Người khẳng định muốn làm cách mệnh: “ trước phải làm cho dân giác ngộ…phải giảng lý luận và chủ nghĩa cho dân hiểu” “ Cách mệnh phải hiểu trong triều thế giới, phải bày sách lược cho dân. Vậy nên sức cách mệnh phải tập trung, muốn tập trung phải có đảng cách mệnh.”
Trong tác phẩm Đường cách mệnh người khẳng định : “Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động ngoài thi liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thuyền mới chạy.”
Đầu năm 1930, Người sáng lập ra Đảng Cộng ản Việt Nam một chính Đảng của giai cấp công nhân và dân tộc Việt Nam được xây dựng theo nguyên tắc Đảng kiểu mới của Lênin, lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động, có tổ chức chặt chẽ, kỷ luật nghiêm minh, mật thiết liên lạc với quần chúng. Như vậy ĐCSVN là đảng của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động là của dân tộc Việt Nam.
=>Người nói: “ Đảng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động nghĩa là những người thợ thuyền, dân cày và lao động trí óc kiên quyết nhất, hăng hái nhất, trong sạch nhất, tận tâm tận lực phụng sự Tổ quốc và nhân dân”
ĐCSVN là Đảng của Bác Hồ, là Đảng của mình và đều gọi Đảng là “Đảng ta”. Nười đã xây dựng được một Đảng CM tiên phong phù hợp với thực tiễn VN. Đảng đã nắm ngọn cờ lãnh đạo duy nhất đối với CM VN và trở thành nhân tố hàng đầu bảo đảm cho mọi thắng lợi của cách mạng.
-
Lực lượng của cách mạng giải phóng dân tộc bao gồm toàn dân tộc
CM là sự nghiệp của dân chúng bị áp bức. Năm 1924 Hồ Chí Minh đã nghĩ đến một cuộc khởi nghĩa vũ trang toàn dân. Để thắng lợi phải có tính chất cuộc khởi nghĩa quần chúng chứ không phải một cuộc nổi loạn của một hai người. Vì vậy phải đoàn kết toàn dân. Sỹ công nông thương đều nhất trí chống lại cường quyền nhưng tromg sự tổng hợp rộng rãi đó Người luôn nhắc nhở không được quên cốt lõi của nó là công nông. Phải nhớ công nông là người chủ CM, là gốc CM
Quan điểm “lấy dân làm gốc” xuyên suốt quá trình chỉ đạo chiến tranh của Người, “Có dân là có tất cả”, “Dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Khi làm việc ở nước ngoài Người nói: “ Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập”
Về lực lượng giải phóng dân tộc. Hồ Chí Minh phân tích: cuộc kháng chiến của ta là cuộc kháng chiến toàn dân, phải động viên toàn dân, vũ trang toàn dân. Dân tộc cách mệnh thì chưa phân giai cấp, nghã lá sĩ, nông, công, thương đều nhất trí chống lại cường quyền.
Trong lực lượng toàn dân tộc các giai cấp công nhân và nông dân có số lượng đông nhất nên có sức mạnh lớn nhất. Vì vậy Người hết sức nhấn mạnh vai trò động lực cách mạng của công nhân và nông dân. Bên cạnh đó Người cũng không coi nhẹ khả năng tham gia sự nghiệp giải phóng dân tộc của các giai cấp và tầng lớp khác. Người coi tiểu tư sản và tư sản dân tộc và một bộ phận giai cấp địa chủ là bạn đồng minh của CM.
-
Cách mạng GPDT cần được tiến hành chủ động, sáng tạo và có khả năng giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, chủ nghĩa thực dân, CM thuộc địa có tầm quan trọng đặc biệt. Nhân dân các dân tộc thuộc địa có khả năng CM to lớn. Theo Người, phải “ Làm cho các dân tộc thuộc địa, từ trước đến nay vẫn cách biệt nhau, hiểu biết nhau hơn và đoàn kết lại để đặt cơ sở cho một liên minh phương Đông tương lai, khối liên minh này sẽ là một trong những cái cánh của CMVS”
Vận dụng coomg thức của C.Mác: “ sự giải phóng của giai cấp công nhân phải là sự nghiệp của bản thân giai cấp công nhân”, Người đi đến luận điểm: “ công cuộc giải phóng anh em ( nhân dân thuộc địa TG) chỉ có thể thực hiện được bằng sự nổ lực của anh em”..
Theo Hồ Chí Minh, giữa CM GPDT ở thuộc địa và CMVS chính quốc có mối quan hệ mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc. Đó là mối quan hệ bình đẳng chứ không phải là quan hệ lệ thuộc, hoặc quan hệ chính-phụ. Nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc có thể chủ động đứng lên đem sức ta mà giải phóng cho nhân dân ta giành thắng lợi trước CMVS ở chính quốc. Đây chính là một luận điểm sáng tạo có giá trị thực tiễn to lớn, một cống hiến quan trọng của Hồ Chí Minh vào kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin.
-
Cách mạng giải phóng dân tộc phải được thực hiện bằng con đường bạo lực
Các thế lực đế quốc sử dụng bạo lực để xâm lược và thống trị thuộc địa, đàn áp dã man các phong trào yêu nước. Đánh giá đúng bản chất cực ký phản động của bọn đế quốc và tay sai, Hồ Chí Minh vạch rõ tính tất yếu của bạo lực CM : “ Trong cuộc đấu tranh gian khổ chống kẻ thù của giai cấp và của dân tộc, cần dùng bạo lực CM chống lại bạo lực phản CM, giành lấy chính quyền và bảo vệ chính quyền”.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, coi sự nghiệp CM là sự nghiệp của quần chúng, Người cho rằng bạo lực CM là bạo lực của quần chúng. Trong đó cơ sở bạo lực CM gồm lực lượng chính trị, quần chúng lấy lực lượng vũ trang nhân dân làm nòng cốt. Mặt trận Việt Minh ra đời là một lực lượng cơ bản giữ vai trò quyết định trong tổng khởi nghĩa vũ trang.
Hình thức của bạo lực CM bao gồm cả đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang nhưng phải “ tùy tình hình cụ thể mà quyết định những hình thức đấu tranh CM thích hợp, sư dụng đúng và khéo kết hợp các hình thức đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị để giành được thắng lợi cho CM.”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về bạo lực CM khác hẳn với tư tưởng hiếu chiến của thế lực đế quốc xâm lược. Xuất phát hòa bình, từ tình yêu thương con người, quý trọng sinh mạng con người, Người luôn tranh thủ khả năng giành và giữ chính quyền ít đổ máu. Việc tiến hành chiến tranh chỉ là giải pháp bắt buộc cuối cùng. Chỉ khi không có khả năng hòa hoãn, khi kẻ thù ngoan cố bám giữ lập trường thực dân, chỉ muốn giành thắng lợi bằng quân sự thì Người mới kiên quyết phát động chiến tranh.
Theo Hồ Chí Minh, trong sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc “ lực lượng chính là ở dân”. Người chủ rương tiến hành khởi nghĩa toàn dân và chiến tranh nhân dân. Người nói: “ Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào ứng phó được.” Người sử dụng phương châm chiến lược đánh lâu dài. Trong chiến tranh “quân sự là chủ chốt” nhưng đồng thời phải kết hợp giữa đấu tranh chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa tư tưởng và phải có tinh thần tự lực cánh sinh tránh bị động trông chờ vào sự giúp đỡ của bên ngoài. Mặc dù rất coi trọng sự giúp đỡ quốc tế nhưng Người luôn để cao sức mạnh bên trong, phát huy đến mức cao nhất mọi nổ lực của dân tộc, đề cao tinh thần độc lập tự chủ.
- Tư tưởng HCM về vấn đề CMGP dân tộc đã có những luận điểm sáng tạo, đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn lớn. Tư tưởng đó đã góp phần soi đường thắng lợi cho CM giải phóng dân tộc ở VN.