*Phương án điều tra thống kê
Để tổ chức tốt một cuộc điều tra thống kê, đòi hỏi phải xây dựng được phương án điều tra thật chi tiết, tỷ mỷ, cụ thể và toàn diện. Trong phương án điều tra hướng dẫn thực hiện cuộc điều tra, xác định rõ những khái niệm, những bước tiến hành, những vấn đề cần giải quyết và cần được hiểu thống nhất trong suốt quá trình thực hiện. Sau đây là những nội dung cơ bản của phương án điều tra:
– Xác định mục đích điều tra. Trước khi tiến hành điều tra, cần xác định rõ xem cuộc điều tra nhằm tìm hiểu vấn đề gì, phục vụ cho yêu cầu nghiên cứu nào. Mục đích điều tra là một trong các căn cứ quan trọng để xác định đối tượng, đơn vị điều tra, nội dung điều tra… Vì vậy, việc xác định đúng mục đích điều tra là một trong những cơ sở quan trọng cho việc thu thập số liệu ban đầu đầy đủ, hợp lý và đáp ứng yêu cầu nghiên cứu đặt ra.
Ví dụ: Cuộc tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009 nhằm mục đích:
à Làm căn cứ phục vụ công tác nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển kinh tế – xã họi và dân số của nước ta ở từng địa phương và trên phạm vi cả nước
à Làm căn cứ đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2001 – 2010. Đồng thời, là cơ sở để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội thời kỳ 2011 – 2020; phục vụ công tác giám sát thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc mà Chính phủ Việt Nam đã cam kết.
– Xác định phạm vi, đối tượng và đơn vị điều tra.
à Xác định đối tượng điều tra là xác định những đơn vị tổng thể thuộc phạm vi điều tra, cần được thu thập thông tin. Khi đối tượng điều tra được chỉ rõ nghĩa là phạm vi nghiên cứu đã được xác định. Việc xác định đối tượng điều tra trả lời cho câu hỏi “điều tra ai?”.
à Xác định đơn vị điều tra là xác định đơn vị cung cấp thông tin. Đơn vị điều tra chính là nơi phát sinh các tài liệu ban đầu, là nơi để thu thập thông tin trong mỗi cuộc điều tra.
à Trong thực tế, đối tượng điều tra và đơn vị điều tra có thể trùng nhau hoặc khác nhau.
Ví dụ: điều tra kết quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội thì cả đối tượng điều tra và đơn vị điều tra đều là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội. Nếu điều tra trình độ học vấn của các chủ doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội thì đối tượng điều tra là các chủ doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội, còn đơn vị điều tra là các doanh nghiệp sản xuất công nghiệp trên địa bàn Hà Nội.
– Xác định nội dung điều tra và thiết lập phiếu điều tra.
à Việc xác định nội dung điều tra trả lời cho câu hỏi “điều tra cái gì?”. Việc xác định nội dung điều tra cần căn cứ vào các yếu tố sau:
- Mục đích điều tra: chỉ rõ cần xác định thu thập những thông tin nào để đáp ứng yêu cầu nghiên cứu. Mục đích điều tra càng nhiều, nội dung điều tra càng rộng và phong phú.
- Đặc điểm của hiện tượng nghiên cứu.
- Năng lực, trình độ của đơn vị và người tổ chức điều tra…
Ví dụ: trong cuộc Tổng điều tra dân số năm 2009, nội dung điều tra được thể hiện thông qua 24 câu hỏi. Nội dung chủ yếu bao gồm: họ tên, quan hệ với chủ hộ, giới tính, dân tộc, tôn giáo, nơi thực thế thường trú, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật, tình trạng hôn nhân…
à Phiếu điều tra (bảng hỏi) là tập hợp các câu hỏi của nội dung điều tra được sắp xếp theo trình tự logic nhất định. Tùy theo yêu cầu, nội dung và đối tượng, mỗi cuộc điều tra có thể có một hoặc một số bảng hỏi khác nhau. Về mặt hình thức, các câu hỏi có thể được diễn đạt theo hai cách: câu hỏi đóng (câu hỏi có sẵn các phương án trả lời, người được hỏi chọn một hoặc một số trong các phương án đó) và câu hỏi mở (câu hỏi không có trước phương án trả lời, người được hỏi tự diễn đạt câu trả lời).
– Chọn thời điểm, thời kỳ và thời hạn điều tra
à Thời điểm điều tra là mốc thời gian được quy định thống nhất mà cuộc điều tra phải thu thập thông tin về hiện tượng tồn tại đúng thời điểm đó.
Ví dụ: thời điểm của cuộc Tổng điều tra dân số ở nước ta năm 2009 là 0h ngày 1/4/2009.
à Thời kỳ điều tra là khoảng thời gian (tuần, tháng, quý, năm…) được quy định để thu thập số liệu về lượng của hiện tượng nghiên cứu được tích lũy trong cả thời kỳ đó.
Ví dụ: GDP của Việt Nam năm 2014 là 184 tỷ USA => thời kỳ điều tra là “năm 2014”.
à Thời hạn điều tra (thời gian điều tra) là khoảng thời gian dành cho việc thực hiện nhiệm vụ thu thập, ghi chép số liệu.
Ví dụ: thời hạn điều tra trong cuộc Tổng điều tra dân số năm 2009 là từ 7 giờ sáng ngày 1/4/2009 đến hết ngày 20/4/2009. Trong khoảng thời gian này, các điều tra viên phải hoàn thành định mức điều tra và việc điều tra ở các địa phương phải được hoàn thành.
– Lựa chọn phương pháp điều tra, tổng hợp số liệu. Trong thống kê, có nhiều phương pháp điều tra, tổng hợp số liệu. Vì vậy, trước khi điều tra cần lựa chọn phương pháp điều tra, tổng hợp số liệu sao cho hợp lý. Các yếu tố cơ bản tác động đến việc lựa chọn phương pháp này là:
- Mục đích, nội dung điều tra
- Đặc điểm của đối tượng điều tra
- Năng lực, trình độ, kinh nghiệm của đơn vị và đội ngũ điều tra viên…
– Lập kế hoạch tuyển chọn và tập huấn cho cán bộ điều tra
– Thiết lập phương án chọn mẫu cho cuộc điều tra. Nội dung này được áp dụng cho các cuộc điều tra chọn mẫu. Phương án chọn mẫu phải bao gồm đầy đủ các yếu tố của một cuộc điều tra chọn mẫu: cỡ mẫu, phân bố mẫu, phương pháp tổ chức lấy mẫu, tính sai số chọn mẫu, cách thức ước lượng, suy rộng…
– Xây dựng phương án tài chính cho cuộc điều tra. Thực chất của phương án tài chính là một bản dự toán, trong đó đề xuất các khoản mục chi tiêu, đơn giá – khối lượng – số tiền cho từng khoản mục đó và tổng số tiền chi cho cuộc điều tra. Phương án tài chính giúp cho nhà tổ chức điều tra có đủ nguồn kinh phí cần thiết thực hiện cuộc điều tra mà không vi phạm các quy định quản lý tài chính của Nhà nước, là căn cứ để tiến hành hạch toán và kiểm toán sau này.
– Lập kế hoạch tổ chức và tiến hành điều tra. Đây là vấn đề trọng yếu của điều tra thống kê. Kế hoạch này quy định cụ thể từng bước công việc phải tiến hành trong quá trình điều tra, từ khâu tổ chức đến triển khai điều tra. Vì vậy, việc lập kế hoạch tổ chức và tiến hành điều tra càng chi tiết, rõ ràng thì chất lượng cuộc điều tra càng được nâng cao.
* Phúc tra kết quả điều tra.
– Thông thường, ngay khi hoàn thành việc thu thập thông tin trong cuộc điều tra, người ta tiến hành công việc phúc tra kết quả điều tra đã thu được. Phúc tra là việc tổ chức điều tra lại với chính các đối tượng đã được điều tra nhằm đánh giá tính chính xác và chỉnh lý số liệu đã thu thập được.
– Việc phúc tra thường chỉ tiến hành theo phương pháp chọn mẫu, với một số ít nội dung thường bị khai báo sai. Việc phúc tra được tiến hành cẩn thận trên một mẫu nhỏ với ít nội dung nên độ chính xác cao. Sau khi có kết quả phúc tra, đem so sánh với kết quả điều tra lần đầu để đánh giá mức độ sai sót và chỉnh lý kết quả điều tra.