Sự khác nhau giữa thất nghiệp tự nhiên và thất nghiệp chu kỳ? Cho ví dụ?
Khái niệm thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp tồn tại ngay cả trong dài hạn.
Thất nghiệp tự nhiên được dùng để chỉ mức thất nghiệp mà bình thường nền kinh tế trải qua. Thuật ngữ tự nhiên không hàm ý rằng tỷ lệ thất nghiệp này là đáng mong muốn, không thay đổi theo thời gian hoặc không bị ảnh hưởng bởi chính sách kinh tế. Nó đơn giản là mức thất nghiệp được duy trì ngay cả trong dài hạn. Các dạng thất nghiệp được tính vào thất nghiệp tự nhiên gồm có thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu và thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển.
Thất nghiệp chu kỳ biểu thị sự khác biệt giữa thất nghiệp thực tế so với mức thất nghiệp tự nhiên do những biến động của nền kinh tế trong ngắn hạn.
Thất nghiệp chu kỳ được dùng để chỉ những biến động của thất nghiệp từ năm này đến năm khác xung quanh mức thất nghiệp tự nhiên và nó gắn liền với những biến động kinh tế trong ngắn hạn. Các nền kinh tế thường xuyên biến động, thể hiện bằng tăng trưởng cao trong một số thời kỳ và tăng trưởng thấp trong các thời kỳ khác và thậm chí có thể suy thoái. Khi nền kinh tế mở rộng, thất nghiệp chu kỳ biến mất; ngược lại, khi nền kinh tế thu hẹp, thất nghiệp chu kỳ rất cao. Thất nghiệp chu kỳ xuất hiện khi tổng cầu không đủ để cân đối với toàn bộ sản lượng tiềm năng của nền kinh tế hay sản lượng thực tế thấp hơn sản lượng tiềm năng và điều này gây ra suy thoái. Thất nghiệp chu kỳ có thể đo lường bằng số người có thể có việc làm khi sản lượng ở mức tiềm năng trừ đi số người hiện đang làm việc trong nền kinh tế. Khi thất nghiệp chu kỳ bằng 0, toàn bộ thất nghiệp hiện tại đều là thất nghiệp tạm thời, thất nghiệp cơ cấu hay thất nghiệp theo lý thuyết Cổ điển, và khi đó tỷ lệ thất nghiệp chính là tỷ lệ thất nghiệp tự nhiên. Trong dài hạn, nền kinh tế có thể tự quay trở lại trạng thái toàn dụng thông qua sự điều chỉnh của tiền lương và giá cả nên thất nghiệp chu kỳ sẽ tự mất đi. Tuy nhiên, trong ngắn hạn, thất nghiệp chu kỳ là một phần trong tổng số thất nghiệp mà Chính phủ có thể góp phần giảm bớt bằng cách sử dụng chính sách tài khóa và tiền tệ để tăng tổng cầu, chứ không phải bằng cách chờ cho tiền lương và giá cả giảm.
Ví dụ: Sau khi tốt nghiệp đại học nếu chưa có việc làm thì sinh viên cần đi tìm việc làm, trong thời gian tìm việc (1 tuần – vài tuần) thì sinh viên đó đang thất nghiệp đây là một ví dụ về thất nghiệp tự nhiên. Sinh viên sau khi ra trường luôn có một tỷ lệ thất nghiệp nhất định do không phải sinh viên nào cũng tìm được việc ngay sau khi tốt nghiệp. Thất nghiệp tạm thời này của sinh viên không bị mất đi.
Sau khi ra trường và tốt nghiệp vào năm 2020 đa số lao động ngành du lịch, hàng không không thể tìm được việc làm do dịch bệnh covid – 19 ảnh hưởng tới cầu việc làm. Những sinh viên này là những lao động thất nghiệp theo chu kỳ, sau khi hết ảnh hưởng của covid – 19 thì nhu cầu lao động của ngành tăng lên thì thất nghiệp này sẽ mất đi.