Thế nào là sao chép hợp lý tác phẩm được cung cấp dưới dạng ấn bản điện tử

Please follow and like us:

Thế nào là sao chép hợp lý tác phẩm được cung cấp dưới dạng ấn bản điện tử

Đáp án tham khảo.

Xem thêm: Tại đây

Hành vi sao chép hợp lý một phần tác phẩm theo điểm e, khoản 1 Điều 25 Luật SHTT:
“e) Sử dụng tác phẩm trong hoạt động thư viện không nhằm mục đích thương mại, bao gồm sao chép tác phẩm lưu trữ trong thư viện để bảo quản, với điều kiện bản sao này phải được đánh dấu là bản sao lưu trữ và giới hạn đối tượng tiếp cận theo quy định của pháp luật về thư viện, lưu trữ; sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép cho người khác phục vụ nghiên cứu, học tập; sao chép hoặc truyền tác phẩm được lưu giữ để sử dụng liên thông thư viện thông qua mạng máy tính, với điều kiện số lượng người đọc tại cùng một thời điểm không vượt quá số lượng bản sao của tác phẩm do các thư viện nói trên nắm giữ, trừ trường hợp được chủ sở hữu quyền cho phép và không áp dụng trong trường hợp tác phẩm đã được cung cấp trên thị trường dưới dạng kỹ thuật số;”
Người sử dụng chỉ được tải “không quá 10% tổng số trang hoặc tổng đơn vị lưu trữ (bytes), tổng số từ của ấn bản, độ dài nội dung của ấn bản đối với tác phẩm được cung cấp dưới dạng ấn bản điện tử không chia trang” (khoản 3 Điều 25 Nghị định 17/2023-NĐCP). Anh chị hiểu thế nào là sao chép hợp lý tác phẩm được cung cấp dưới dạng ấn bản điện tử trên?

Theo điểm a khoản 1 điều 25 quy định tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân là một trong những trường hợp được sử dụng mà không phải xin phép, trả tiền nhuận bút, thù lao.

Thuật ngữ “sao chép” được giải thích là “việc tạo ra một hoặc nhiều bản sao của tác phẩm hoặc bản ghi âm, ghi hình bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc lưu trữ thường xuyên hoặc tạm thời tác phẩm dưới hình thức điện tử”.

Bản sao tác phẩm được giải thích tại Điều 4 Nghị định 100/2006/NĐ-CP ngày 21/9/2006 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Dân sự, Luật Sở hữu trí tuệ về quyền tác giả và quyền liên quan là “bản sao chép trực tiếp hoặc gián tiếp một phần hoặc toàn bộ tác phẩm”. Trên thực tế quyền sao chép bao trùm rất nhiều hoạt động, bao gồm việc sao chép nội dung hay hình ảnh bằng máy quét hay máy photocopy hay bất kỳ phương tiện nào khác, việc ghi âm, ghi hình các bài giảng…

Như vậy, photocopy là một hình thức sao chép tác phẩm. Trong một giới hạn nhất định nó được khai thác một cách “tự do” để phục vụ nghiên cứu khoa học hay giảng dạy. Nhưng nếu sao chép tác phẩm mà không được sự cho phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả thì bị coi là có hành vi xâm phạm quyền tác giả và tùy vào tính chất, mức độ vi phạm có thể áp dụng các biện pháp chế tài dân sự, hình sự hay hành chính.Vậy điều kiện sao chép là gì? Trường hợp đó là những trường hợp nào? Hay nói một cách cụ thể sinh viên có quyền photocopy tài liệu trong những trường hợp nào? Số lượng và khối lượng được photocopy tới đâu? Để xem xét vấn đề này cần phải hiểu đầy đủ nội dung quy định của Điều 25 Luật SHTT và Điều 25 Nghị định 100/2006/NĐ-CP.
Thứ nhất: pháp luật Việt Nam chỉ cho phép sao chép tác phẩm nói chung (photocopy nói riêng) không quá một bản trong trường hợp nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân, không nhằm mục đích thương mại. Nghiên cứu khoa học được pháp luật Việt Nam định nghĩa là “hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy, sáng tạo các giải pháp nhằm ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng”.Như vậy, quy định tại điểm a khoản 1 Điều 25 Luật SHTT không áp dụng cho sinh viên, học viên trong trường hợp photocopy tài liệu nhằm mục đích học tập. Vậy giảng viên có quyền photocopy tác phẩm không ?.Theo quan điểm cá nhân tôi là có, nếu việc photocopy đó không quá một bản và nhằm phục vụ cho mục đích nghiên cứu khoa học và giảng dạy. Pháp luật của một số nước còn mở rộng quyền sao chép tác phẩm của giảng viên nhằm mục đích giảng dạy (kể cả photocopy nhiều bản phát cho các học viên trong lớp học) vì hành vi (photocopy) của giáo viên trong trường hợp này không nhằm mục đích thương mại.

Thứ hai, khoản 2 Điều 25 Luật SHTT quy định: “Tổ chức, cá nhân sử dụng tác phẩm quy định tại khoản 1 Điều này không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả…”. Như vậy, tình trạng học viên (sinh viên) tự do photocopy giáo trình và các tài liệu khác với lập luận cho rằng chỉ photocopy một bản nhằm mục đích cá nhân (học tập) thì có vi phạm khoản 2 Điều 25 không? Thực tế tình trạng photocopy này không những đã làm ảnh hưởng, mà thậm chí còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc khai thác bình thường tác phẩm của tác giả và chủ sở hữu tác phẩm. Bởi lẽ đơn giản là giá thành photocopy tác phẩm sẽ rẻ hơn giá mua tác phẩm, cho nên chắc chắn nhiều người sẽ lựa chọn hình thức photocopy tác phẩm hơn là mua tác phẩm, và điều này thì chắc chắn ai cũng biết và nhìn thấy được là sẽ gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm trong việc khai thác quyền tài sản của mình.
Chính vì vậy, việc photocopy tài liệu, giáo trình mà không được phép của tác giả không thuộc trường hợp được quy định tại Điều 25 Luật SHTT và Điều 25 Nghị định 100/2006/NĐ-CP và đây là hành vi xâm phạm quyền tác giả theo quy định tại Điều 28 Luật SHTT. Trong trường hợp việc photocopy tài liệu được thực hiện một cách có tổ chức và hệ thống thì không những bị coi là vi phạm quyền sao chép mà còn xâm phạm cả quyền phân phối tác phẩm của chủ sở hữu quyền tác giả”.Còn đối với thư viện thì theo quy định tại khoản 2 Điều 25 Nghị định 100/2006/NĐ-CP, thư viện chỉ có quyền sao chép không quá một bản nhằm mục đích nghiên cứu và thư viện không được sao chép, phân phối bản sao tác phẩm tới công chúng, kể cả bản sao kỹ thuật số.

Để có so sánh cụ thể và toàn diện, dưới đây là một số tìm hiểu của tác giả về quy định pháp luật liên quan đến photocoppy của một số nước, mà đại diện là Hoa Kỳ và Nga.

Cũng như ở Việt Nam, Luật bản quyền năm 1976 của Hoa Kỳ cũng có những quy định nhằm hài hòa hóa lợi ích của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm và những lợi ích công cộng của xã hội, theo đó các quyền của tác giả có thể bị hạn chế bởi việc sử dụng của bên thứ ba. Việc sao chép tác phẩm bởi các thư viện, cơ quan lưu trữ vì mục đích nghiên cứu, giảng dạy không nhằm kinh doanh, theo quy định của Luật bản quyền năm 1976, là không vi phạm quyền tác giả. Tại Điều 107 quy định về hạn chế đối với các độc quyền “sử dụng hợp lý” như sau: Không trái với các quy định tại Điều 106 và 106a, được phép sử dụng một tác phẩm được bảo hộ quyền tác giả bao gồm các hình thức sử dụng thông qua hình thức sao chép, dưới dạng bản sao hoặc bản ghi hoặc bởi bất kỳ một phương thức nào được quy định trong Điều này cho mục đích bình luận, phê bình, đưa tin hoặc nghiên cứu, giảng dạy (bao hàm cả việc sử dụng nhiều bản photocopy cho lớp học), là không vi phạm quyền tác giả. Để xác định xem liệu việc sử dụng tác phẩm trong các trường hợp cụ thể có phải là sử dụng được phép hay không cần xem xét đến các yếu tố như: mục đích, số lượng và thực chất của phần được sử dụng trong tác phẩm và quan trọng nhất là vấn đề ảnh hưởng của việc sử dụng đó đối với tiềm năng thị trường, hoặc đối với giá trị của tác phẩm được bảo hộ. Ngoài ra tại Điều 108 về hạn chế các quyền độc quyền “tái bản nhằm mục đích lưu trữ và dùng trong thư viện” cũng quy định: Không trái với quy định của Điều 106, sẽ không bị coi là hành vi vi phạm quyền tác giả đối với việc tái bản nhiều hơn một bản sao hoặc bản ghi của tác phẩm cho mục đích lưu trữ và dùng trong thư viện và việc “1) tái bản hoặc phân phối đó được thực hiện không nhằm mục đích thu lợi nhuận, dù trực tiếp hay gián tiếp; 2) sưu tập của thư viện và lưu trữ để: a) phục vụ công chúng…”. Như vậy khi xét trong tương quan so sánh, nội dung của các điều luật này không có khác biệt lớn so với quy định của pháp luật Việt Nam tại khoản 2 Điều 25 Luật SHTT năm 2005 và Điều 9 của Công ước Berne.

Theo pháp luật của Liên bang Nga, quyền sử dụng “tự do” tác phẩm (sử dụng tác phẩm không cần có sự đồng ý của tác giả và không cần trả thù lao cho tác giả mà không bị xem là vi phạm) được qui định tại các điều từ Điều 18 đến Điều 26, trong đó sao chép tác phẩm được qui định tại Điều 20 của Luật quyền tác giả. Sao chép tác phẩm không cần có sự đồng ý và trả thù lao cho tác giả nhưng bắt buộc phải có sự trích dẫn tên tác giả, nguồn gốc sao chép và sao chép trong giới hạn một bản duy nhất, không nhằm mục đích thương mại, được quyền thực hiện với các điều kiện sau:

1. Tác phẩm được công bố một cách hợp pháp bởi thư viện, bộ phận lưu trữ nhằm mục đích khôi phục, thay thế những bản bị thất lạc, hư hỏng;

2. Các bài viết riêng biệt và một phần không lớn của tác phẩm được công bố hợp pháp trong các tuyển tập, trên báo chí, những đoạn ngắn từ những tác phẩm viết (có hoặc không có sự minh họa) được công bố một cách hợp pháp bởi thư viện, cơ quan lưu trữ theo yêu cầu của cá nhân và phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu;

3. Các bài viết riêng biệt và một phần không lớn của tác phẩm được công bố hợp pháp trong các tuyển tập, trên báo chí, những đoạn ngắn từ những tác phẩm viết (có hoặc không có sự minh họa) được công bố một cách hợp pháp bởi các cơ sở giáo dục nhằm mục đích phục vụ cho việc học tập tại giảng đường.
Như vậy, thứ nhất, sao chép theo qui định của Luật quyền tác giả của Liên bang Nga chỉ được thực hiện đối với những tác phẩm đã được công bố hợp pháp.
Thứ hai, việc sao chép bắt buộc vẫn phải có sự trích dẫn tên tác giả, nguồn gốc sao chép, có nghĩa không có sự vi phạm quyền nhân thân của tác giả. Ngoại lệ của nguyên tắc này có thể là trường hợp sao chép một số trang thay cho những trang bị mất hoặc hư hỏng.
Thứ ba, chỉ có thể sao chép một bản duy nhất. Qui định này gần như tạo một ra sự che chắn cho hoạt động sao chép tác phẩm không hợp pháp vì pháp luật không chỉ rõ hoặc có sự hạn chế rõ ràng số lượng tối đa bản sao được phép sao chép trong một khoảng thời gian nhất định.
Thứ tư, việc sao chép không gắn liền với mục đích thương mại. Điều này không nên nhầm lẫn với việc trả phí cho sao chép, khi mức phí tương ứng với mức chi phí cho việc sao chép. Vấn đề sẽ khác đi nếu như mức phí không phải chỉ để bù đắp lại chi phí mà còn để phân chia dưới hình thức lợi nhuận. Qui định này cũng tạo rất nhiều kẽ hở cho việc quản lý các cơ sở photocopy và bảo vệ quyền của tác giả, chủ sở hữu.
Thứ năm, hoạt động sao chép chỉ được thực hiện trong các trường hợp được ghi nhận trực tiếp tại điều này. Trước hết quyền sao chép được trao cho thư viện, cơ sở lưu trữ nhằm mục đích khôi phục, bổ sung những bản bị hư hỏng, thất lạc.
Tiếp theo, quyền sao chép cũng thuộc về thư viện, cơ sở lưu trữ nhưng chỉ là việc sao chép các bài viết riêng biệt và một phần không lớn của tác phẩm được công bố hợp pháp trong các tuyển tập, trên báo chí, những đoạn ngắn từ những tác phẩm viết (có hoặc không có sự minh họa) được công bố một cách hợp pháp và chỉ theo yêu cầu của cá nhân nhằm phục vụ cho mục đích học tập và nghiên cứu. Cuối cùng, các cơ sở đào tạo để tiến hành việc học và dạy tại giảng đường có thể sao chép các bài viết riêng biệt và một phần không lớn của tác phẩm được công bố hợp pháp trong các tuyển tập, trên báo chí, những đoạn ngắn từ những tác phẩm viết (có hoặc không có sự minh họa).
Ngoài những trường hợp nói trên, mọi việc sao chép các tác phẩm được công bố hợp pháp bởi thư viện, cơ sở lưu trữ, cơ sở đào tạo đều phải có sự đồng ý của tác giả, chủ sở hữu.

Sao chép hợp lý một phần tác phẩm bằng thiết bị sao chép để nghiên cứu khoa học, học tập của cá nhân và không nhằm mục đích thương mại quy định tại các Điểm e, Khoản 1, Điều 25 của Luật SHTT là hành vi sao chép hợp lý không quá một bản một phần tác phẩm. Khoản 3 Điều 25 Nghị định 17/2023-NĐCP quy định: “Người  sử dụng chỉ được tải “không quá 10% tổng số trang hoặc tổng đơn vị lưu trữ (bytes), tổng số từ của ấn bản, độ dài nội dung của ấn bản đối với tác phẩm được cung cấp dưới dạng ấn bản điện tử không chia trang”  Hành vi sao chép hợp lý bằng thiết bị sao chép quy định tại khoản này phải là hành vi độc lập với từng tổ chức, cá nhân thực hiện và nếu có sự lặp lại thì đó là các trường hợp riêng lẻ không liên quan đến nhau trên cùng một tác phẩm; Tổ chức, cá nhân sao chép tác phẩm được thể hiện dưới dạng chữ viết với tỷ lệ phần trăm nhiều hơn mức quy định tại khoản 3 Điều 25 này phải được sự cho phép của chủ sử hữu quyền tác giả và trả tiền bản quyền, quyền lợi vật chất khác (nếu có) cho chủ sở hữu quyền tác giả.

Please follow and like us:

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *