Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất. Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất là một hệ thống những quan điểm khá hoàn chỉnh về công tác Mặt trận, bắt nguồn từ quan điểm nhất quán của Người về vai trò quyết định của quần chúng trong lịch sử, coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân.
Trong lịch sử cách mạng Việt Nam từ năm 1930 đến nay, không có thời kỳ nào vắng tổ chức Mặt trận. Thắng lợi huy hoàng của Cách mạng Tháng Tám, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, ngày nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam gắn liền với sự nghiệp cách mạng của Mặt trận Việt Minh. Thành tích của Mặt trận Việt Minh chính là sự kế tục sự nghiệp cách mạng đã được chuẩn bị từ trước của Hội Phản đế Đồng Minh (1930 – 1936) và của Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936 – 1939). Tiếp theo Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt đã góp phần đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi. Kế tục sự nghiệp của Mặt trận Liên Việt, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ra đời có sứ mệnh cao cả là đoàn kết các giới đồng bào làm hậu thuẫn cho chính quyền dân chủ nhân dân ở miền Bắc đã được giải phóng, cùng với Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc dân chủ và hoà bình Việt Nam đã đoàn kết quân dân cả nước làm tròn nhiệm vụ lịch sử vẻ vang là giải phóng miền Nam, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam rõ ràng là một nhân tố thắng lợi của cách mạng, là vũ khí chính trị không thể thiếu để nhân dân ta phát huy sức mạnh tổng hợp của mình trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giành lại độc lập – tự do và xây dựng cuộc sống ấm no – hạnh phúc. Như Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Đại đoàn kết trong Mặt trận dân tộc thống nhất là một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Chính vì những lí do trên, nhóm chúng em đã lựa chọn đề tài của mình là tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
2. Mục đích – nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về bản chất cũng như những nguyên tắc xây dựng và hoạt động của tổ chức Mặt trận Dân tộc Thống nhất.
Để đạt được mục đích nghiên cứu, nhiệm vụ của đề tài đi vào các vấn đề sau đây:
– Tính tất yếu phải xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất
– Những quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
– Nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
– Những kinh nghiệm trong xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc
– Các hình thức của Mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kỳ
3. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin và bản thân các quan điểm có giá trị phương pháp luận của Hồ Chí Minh.
Phương pháp cụ thể: vận dụng phương pháp lịch sử và phương pháp lôgich, các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, v.v..
4. Ý nghĩa đề tài Đề tài
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất” cho chúng ta cái nhìn tổng thể và sâu sắc hơn về sự đóng góp quan trọng của Mặt trận trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Nghiên cứu đề tài để nắm được những quan điểm, tư tưởng của Đảng và chủ tịch Hồ Chí Minh về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Từ đó vận dụng trong công cuộc Đổi mới hiện nay, phát huy sức mạnh của các tầng lớp nhân dân, đồng tâm hiệp lực, đem hết nhiệt tình, trí tuệ và tài năng cống hiến cho sự chấn hưng đất nước, thực hiện lời dạy của chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công!”
5. Kết cấu đề tài
Đề tài gồm có 3 phần:
I. Mở đầu
2. Nội dung chính
III. Kết luận.
II NỘI DUNG
1. Tính tất yếu xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
Trước Hồ Chí Minh, các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin chưa đề cập đến vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Do đặc điểm của thời đại mình, C.Mác và Ăngghen mới chỉ kêu gọi đoàn kết giai cấp vô sản toàn thế giới và thực hiện liên minh công nông trong đấu tranh lật đổ chế độ tư bản chủ nghĩa. Tới V.I.Lênin, trong điều kiện chủ nghĩa tư bản đã chuyển sang chủ nghĩa đế quốc, ách áp bức giai cấp và dân tộc đã diễn ra trên phạm vi toàn cầu, tư tưởng liên minh công nông của C.Mác được V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản mở rộng ra trên quy mô toàn thế giới với khẩu hiệu nổi tiếng: “Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”. Song, do chưa đánh giá đầy đủ vấn đề dân tộc, tư tưởng về đoàn kết dân tộc trong Mặt trận dân tộc thống nhất vẫn chưa được V.I.Lênin và Quốc tế Cộng sản đặt ra.
Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chứng minh tính bức thiết cần phải có một Mặt trận dân tộc thống nhất để lãnh đạo khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, phong trào yêu nước đã dấy lên hết sức mạnh mẽ. Liên tiếp nổ ra các cuộc nổi dậy khắp mọi miền đất nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân, các bậc sĩ phu, kể cả một bộ phận quan lại phong kiến. Các phong trào Cần Vương, khởi nghĩa Yên Thế, các phong trào Duy Tân, Đông Du, khởi nghĩa Yên Bái và hàng chục cuộc đấu tranh khác nữa, mặc dù đã diễn ra vô cùng anh dũng, với tinh thần “người trước ngã, người sau đứng dậy”, nhưng rốt cuộc đều bị thực dân Pháp dìm trong biển máu. Như vậy, toàn dân tộc chỉ trở thành lực lượng to lớn, có sức mạnh vô địch trong đấu tranh bảo vệ và xây dựng Tổ quốc khi được tập hợp, tổ chức lại thành một khối vững chắc, được giác ngộ về mục tiêu chiến đấu chung và hoạt động theo một đường lối chính trị đúng đắn. Nếu không được như vậy thì quần chúng nhân dân dù có đông tới hàng triệu, hàng trăm triệu con người cũng chỉ là một số đông không có sức mạnh.
Hồ Chí Minh sinh ra trong một dân tộc có truyền thống đấu tranh kiên cường vì độc lập, tự chủ nên đã nhìn thấy sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc, nguồn động lực to lớn của nhân dân Việt Nam trong dựng nước và giữ nước. Nhưng trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ dừng lại ở quan niệm, ở những lời kêu gọi, hiệu triệu mà phải trở thành một chiến lược cách mạng, phải trở thành khẩu hiệu hành động của toàn Đảng, toàn dân tộc. Nó phải biến thành sức mạnh vật chất, trở thành lực lượng vật chất có tổ chức. Tổ chức đó chính là Mặt trận dân tộc thống nhất.
Mặt trận dân tộc thống nhất là nơi quy tụ mọi tổ chức và cá nhân yêu nước, nơi tập hợp mọi con dân nước Việt, không chỉ ở trong nước mà còn bao gồm cả những người Việt Nam định cư ở nước ngoài. Dù ở bất cứ phương trời nào nếu tấm lòng vẫn hướng về quê hương đất nước, vể Tổ quốc Việt Nam, đều được coi là thành viên của Mặt trận.
2. Những quan điểm chỉ đạo trong việc xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
a. Dựng nước và giữ nước là sự nghiệp của toàn dân
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất bắt nguồn từ quan điểm nhất quán của Người về vai trò quyết định của quần chúng trong lịch sử, coi cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, Đảng chỉ có thể hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình nếu biết tập hợp, đoàn kết các tầng lớp nhân dân trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất rộng rãi chống kẻ thù chung và xây dựng đất nước.
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, đồng chí Nguyễn ái Quốc đã nói: Kách mệnh là việc chung của dân chúng, chứ không phải là việc của một hai người. Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, Mác và Ǎngghen chỉ rõ: “… Những người cộng sản phấn đấu cho sự đoàn kết và liên hợp của các đảng dân chủ ở tất cả các nước”. Lênin còn cho rằng chỉ một mình giai cấp vô sản tiến hành cuộc đấu tranh một cách đơn độc “thì đó không những là một điều dại dột, mà còn là một tội ác nữa”. .
Quan điểm cơ bản trên đã được thể hiện trong thực tiễn đấu tranh giành và giữ chính quyền trước đây, cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay. Mặt trận dân tộc thống nhất là sự thực hiện bằng tổ chức việc tập hợp và phát huy sức mạnh toàn dân trong sự nghiệp chung: giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước. Từ ngày thành lập, Đảng ta đã coi Mặt trận dân tộc thống nhất là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, và đã phê phán mọi biểu hiện coi nhẹ công tác mặt trận, hạ thấp vai trò của quần chúng, coi thường nhân tố dân tộc trong cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: công tác mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng.
Quá trình phát triển của cách mạng, tuy phải trải qua những bước thăng trầm, song quan điểm đó luôn luôn nhất quán. Từ Hội Phản đế Đồng minh, Mặt trận Dân chủ Đông Dương, Mặt trận Phản đế Đông Dương, Mặt trận thống nhất chống phát xít đến Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên việt, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ, hoà bình Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam… tất cả những thử nghiệm về lý luận và thực tiễn các phong trào Mặt trận đã đi đến khẳng định những quan điểm đúng đắn của Hồ Chí Minh về Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam.
Để hình thành được mặt trận, tập hợp được hết thảy các lực lượng cách mạng và tiến bộ trong mỗi thời kỳ cách mạng, thực hiên theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng đã đề ra những chủ trương, chính sách thích hợp nhằm đoàn kết toàn dân, phấn đấu cho một mục tiêu nhất định xem đó là chương trình hành động thống nhất của tất cả các giai cấp, các đảng phái, các lực lượng tham gia Mặt trận dân tộc thống nhất. Thể hiện tính chất quần chúng rộng rãi trong công tác mặt trận, Đảng còn linh hoạt trong việc lựa chọn các hình thức và tên gọi của mặt trận, phù hợp với hoàn cảnh cụ thể và mục tiêu, nhiệm vụ từng thời kỳ cách mạng.
b. Đoàn kết dân tộc – nguồn sức mạnh của cách mạng
Một trong những nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam chính là xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc trên cơ sở liên minh công nông.
Dân tộc ta đã phải trải qua bốn nghìn nǎm lịch sử dựng nước và giữ nước. Quá trình lịch sử ấy đã hun đúc nên truyền thống yêu nước, đoàn kết, bất khuất của dân tộc. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Sự đồng tâm của đồng bào ta đúc thành bức tường đồng xung quanh Tổ quốc. Dù địch hung tàn, xảo quyệt đến mức nào, đụng đầu nhằm vào bức tường đó, chúng cũng phải thất bại”.
Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ tám khoá I (tháng 5-1941), dưới sự lãnh đạo trực tiếp của đồng chí Hồ Chí Minh đã chủ trương tạm gác khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của địa chủ, thành lập Mặt trận Việt Minh để mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tập trung mũi nhọn đấu tranh vào nhiệm vụ chống đế quốc, giành độc lập dân tộc. Dưới ngọn cờ đại đoàn kết của Mặt trận Việt Minh, nhân dân ta đã dấy lên một cao trào kháng Nhật cứu nước sôi nổi và đều khắp, nắm vững thời cơ đưa Cách mạng Tháng Tám 1945 đến thắng lợi.
Trong lịch sử cách mạng, nhân dân ta còn đoàn kết với nhân dân các dân tộc Lào và Campuchia anh em, hình thành Mặt trận đoàn kết ba nước, các lực lượng hoà bình, tiến bộ trên thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ, ủng hộ sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã hình thành trên thực tế ba tầng mặt trận: ở trong nước, trên bán đảo Đông Dương và trên thế giới, đoàn kết mọi lực lượng có thể đoàn kết, tranh thủ mọi lực lượng có thể tranh thủ để lên án và cô lập đế quốc Mỹ xâm lược.
Hơn 60 nǎm qua, nhân dân ta đã tiến hành một cuộc đấu tranh lâu dài chống lại những đế quốc thực dân lớn mạnh, đã vượt qua biết bao khó khăn, khổ cực, đổ biết bao xương máu để đưa cách mạng đến thắng lợi vẻ vang cuối cùng. Một trong những nguyên nhân thắng lợi là Đảng ta luôn chǎm lo xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất theo lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết.
Thành công, thành công, đại thành công”
Dựa trên tư tưởng nhất quán của Chủ tịch Hồ Chí Minh đảng ta đã xây dựng nên một khối đại đoàn kết vững bền rộng khắp, chính những điều này đã góp phần to lớn trong thắng lợi của toàn dân tộc không chỉ trong đấu tranh giành độc lập mà còn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
3. Nguyên tắc cơ bản về xây dựng và hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất
– Thứ nhất, Mặt trận dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công-nông-trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Mặt trận dân tộc thống nhất là thực thể của tư tưởng đại đoàn kết dân tộc, nơi quy tụ mọi con dân nước Việt. Song đó không phải là một tập hợp lỏng lẻo, ngẫu nhiên, tự phát của quần chúng nhân dân, mà là một khối đoàn kết chặt chẽ, có tổ chức nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức, do Đảng Cộng sản lãnh đạo.Đây là nguyên tắc cốt lõi trong chiến lược đại đoàn kết của Hồ Chí Minh, nó hoàn toàn khác với tư tưởng đoàn kết, tập hợp lực lượng của các nhà yêu nước Việt Nam trong lịch sử.
Hồ Chí Minh viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”. Người chỉ rõ rằng, sở dĩ phải lấy liên minh công – nông làm nền tảng “Vì họ là người trực tiếp sản xuất tất cả mọi tài phú làm cho xã hội sống. Vì họ đông hơn hết, mà cũng bị áp bức boc lột nặng nề hơn hết. Vì chí khí cách mạng của họ chắc chắn, bền bỉ hơn của mọi tầng lớp khác”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh coi liên minh công nông “là nền”, “là gốc” của đại đoàn kết và chỉ rõ “nó cũng như cái nền của nhà, gốc của cây. Nhưng đã có nền vững, gốc tốt, còn phải đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác”. Vai trò, vị trí, mối quan hệ giữa công nông với các tầng lớp nhân dân khác trong mặt trận chống đế quốc cũng đã được Chỉ thị ngày 18-11-1930 xác định: “Cuộc cách mạng tư sản dân quyền ở Đông Dương mà không tổ chức được toàn dân lại thành một lực lượng thật đông, thật kín thì cuộc cách mạng cũng khó thành công”.Giải thích khái niệm đông, Chỉ thị nêu rõ đó là “toàn dân cùng đứng trong một mặt trận chống đế quốc và tụi phong kiến làm tay sai phản động”; còn khái niệm kín “là đặt để công nông trong bức thành dân tộc phản đế bao la”.
Người căn dặn, trong khi nhấn mạnh vai trò nòng cốt của liên minh công nông, cần chống lại khuynh hướng chỉ coi trọng củng cố khối liên minh công nông mà không thấy vai trò và sự cần thiết phải mở rộng đoàn kết với các tầng lớp khác, nhất là với tầng lớp trí thức. Làm cách mạng phải có tri thức và tầng lớp tri thức rất quan trọng đối với cách mạng. Người nói: “trong sự nghiệp cách mạng, trong sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ vang; và công, nông, trí cần đoàn kết chặt chẽ thành một khối”.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Mặt trận dân tộc thống nhất và liên minh công – nông luôn được Người xem xét trong mối quan hệ biện chứng giữa dân tộc và giai cấp. Mặt trận dân tộc thống nhất càng rộng rãi, sức mạnh của khối liên minh công – nông – trí thức càng được tăng cường; ngược lại, liên minh công – nông – trí thức càng được tăng cường, Mặt trận dân tộc thống nhất càng vững chắc, càng có sức mạnh mà không có một kẻ thù nào có thể phá nổi. Giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc với giai cấp trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất là một sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi vận dụng học thuyết Mác – Lênin về giai cấp và đấu tranh giai cấp, về sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân vào hoàn cảnh cụ thể nước ta. Trong tác phẩm “Đường cách mệnh”, Người đã chỉ rõ: Công nông là gốc của cách mệnh, tiếp theo đó, tư tưởng này được khẳng định trong Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt và còn được bổ sung: học trò, nhà buôn cũng là lực lượng cách mạng và Đảng phải tập hợp được đông đảo công nông, tiểu tư sản, trí thức, trung nông và cả bộ phận tư sản, địa chủ tiến bộ. Người chỉ ra rằng: liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, đồng thời Người cũng chỉ rõ Mặt trận còn là nơi thể hiện sức mạnh của dân tộc, bao gồm mọi người Việt Nam thực sự yêu nước, tiến bộ. Với quan điểm đó, Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề giai cấp (liên minh công nông) trong lòng dân tộc (Mặt trận Dân tộc Thống nhất). Các giai cấp nằm trong Mặt trận Dân tộc Thống nhất là nằm trong liên minh giai cấp, liên minh với các tầng lớp yêu nước khác, không phải đấu tranh để lật đổ, tiêu diệt, loại trừ giai cấp, mà là tạo thành lực lượng thống nhất của cả dân tộc để giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đặt liên minh công nông trong khuôn khổ nền tảng của Mặt trận Dân tộc Thống nhất, Hồ Chí Minh đã giải quyết một cách sáng tạo mối quan hệ hài hoà giữa dân tộc và giai cấp ở nước ta.
Theo Hồ Chí Minh, đại đoàn kết là công việc của toàn dân tộc, song nó chỉ có thể được củng cố và phát triển vững chắc khi được Đảng lãnh đạo. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là vấn đề mang tính nguyên tắc, vừa là một tất yếu bảo đảm cho Mặt trận tồn tại, phát triển và có hiệu lực trong thực tiễn.Bởi vì chỉ có chính Đảng của giai cấp công nhân được vũ trang bởi chủ nghĩa Mác – Lênin mới đánh giá đúng được vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử, mới vạch ra được đường lối chiến lược và sách lược đúng đắn để lôi kéo, tập hợp quần chúng vào khối đại đoàn kết trong Mặt trận, biến tiến trình cách mạng thành ngày hội thật sự của quần chúng.Chính vì vậy, Hồ Chí Minh luôn xác định, mối quan hệ giữa Đảng và Mặt trận là mối quan hệ máu thịt. Không có Mặt trận, Đảng không có lực lượng, không thể thực hiện được những nhiệm vụ cách mạng; không có sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận không thể hình thành, phát triển và không có phương hướng hoạt động đúng đắn.Hồ Chí Minh cho còn rằng, sự lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận vừa là một tất yếu, vừa phải có điều kiện. Tính tất yếu thể hiện ở năng lực nắm bắt thực tiễn, phát hiện ra các quy luật khách quan của sự vận động lịch sử để vạch ra đường lối và phương pháp cách mạng phù hợp, lãnh đạo Mặt trận thực hiện thành công các nhiệm vụ cách mạng mà không một lực lượng nào, một tổ chức chính trị nào trong Mặt trận có thể làm được. Mục tiêu của Đảng là đấu tranh giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Ngoài lợi ích giai cấp và lợi ích của dân tộc, Đảng không có lợi ích nào khác.Do vậy, trong Mặt trận, Đảng Cộng sản vừa là thành viên vừa là lực lượng lãnh đạo. Đảng Cộng sản Việt Nam không có lợi ích riêng mà là gắn liền với lợi ích toàn xã hội, toàn dân tộc. Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền không phải chỉ vì lợi ích của giai cấp mình mà vì “phải trở thành dân tộc” mới có thể giải phóng được dân tộc và giai cấp.
Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh rằng, Đảng Cộng sản Việt Nam là một thành viên của Mặt trận dân tộc thống nhất, đồng thời là lực lượng lãnh đạo Mặt trận. Nhưng Người cho rằng, quyền lãnh đạo Mặt trận không phải do Đảng tự phong cho mình, mà phải được nhân dân thừa nhận. Người nói: “Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”.
Đảng lãnh đạo Mặt trận trước hết bằng việc xác định chính sách Mặt trận đúng đắn, phù hợp với từng giai đoạn, từng thời kỳ cách mạng. Người viết: “Chính sách Mặt trận là một chính sách rất quan trọng. Công tác Mặt trận là một công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng”.Đảng phải dùng phương pháp vận động, giáo dục, thuyết phục, nêu gương, lấy lòng chân thành để đối xử, cảm hóa, khơi gợi tinh thần tự giác, tự nguyện, hết sức tránh gò ép, quan liêu mệnh lệnh.
Sự đoàn kết trong Đảng là cơ sở vững chắc để xây dựng sự đoàn kết trong Mặt trận. Đảng đoàn kết, dân tộc đoàn kết và sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân sẽ tạo nên sức mạnh bên trong, để dân tộc vượt qua mọi khó khăn, chiến thắng mọi kẻ thù, đi tới thắng lợi cuối cùng của cách mạng.
– Thứ hai, Mặt trận dân tộc thống nhất phải hoạt động dựa trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân.
Thành lập Mặt trận dân tộc thống nhất là để thực hiện đại đoàn kết toàn dân, song khối đại đoàn kết đó chỉ có thể thực hiện bền chặt và lâu dài khi có sự thống nhất cao độ về mục tiêu và lợi ích. Ngay từ năm 1925, khi nói về chiến lược đại đoàn kết, Hồ Chí Minh đã chỉ ra rằng, chỉ có thể thực hiện đoàn kết khi có chung một mục đích, một số phận. Nếu không suy nghĩ như nhau, nếu không có chung một mục đích, chung một số phận thì dù có kêu gọi đoàn kết thế nào đi nữa, đoàn kết vẫn không thể có được.
Tin vào dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Đây là nguyên tắc xuất phát từ tư tưởng lấy dân làm gốc của ông cha ta được Hồ Chí Minh kế thừa và nâng lên một bước và là phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật lịch sử: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, nhân dân là người sáng tạo ra lịch sử. Tin vào dân, dựa vào dân và lấy dân làm gốc có nghĩa là phải tin tưởng vững chắc vào sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo của nhân dân, phải đánh giá đúng vai trò của lực lượng nhân dân. Người viết: “Có lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm được. Không có thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn nghĩ mãi không ra”.
Mục đích chung của Mặt trận dân tộc thống nhất được Hồ Chí Minh xác định cụ thể phù hợp với từng giai đoạn cách mạng, nhằm tập hợp tới mức cao nhất lực lượng dân tộc vào khối đại đoàn kết. Đại đoàn kết phải được xây dựng trên cơ sở bảo đảm những lợi ích tối cao của dân tộc, lợi ích của nhân dân lao động và quyền thiêng liêng của con người: Bởi vì trong mỗi quốc gia, mỗi dân tộc bao giờ cũng tồn tại những tầng lớp, giai cấp khác nhau. Mỗi giai cấp, mỗi tầng lớp lại có lợi ích khác nhau nhưng tất cả các lợi ích khác nhau đó đều có một điểm chung là lợi ích dân tộc. Quyền lợi của các tầng lớp, giai cấp có thực hiện được hay không còn phụ thuộc vào dân tộc đó có được độc lập tự do, có đoàn kết hay không và việc nhận thức, giải quyết đúng đắn các quan hệ lợi ích đó như thế nào. Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc Hồ Chí Minh là tìm kiếm, trân trọng và phát huy những yếu tố tương đồng, thu hẹp đến mức thấp nhất những yếu tố khác biệt, mâu thuẫn và Người bao giờ cũng tìm ra những yếu tố của đoàn kết dân tộc thay cho sự đào sâu tách biệt, thực hiện sự quy tụ thay cho việc loại trừ những yếu tố khác nhau về lợi ích. Theo Hồ Chí Minh, lợi ích tối cao của dân tộc là độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, là bình đẳng, dân chủ, tự do. Lợi ích tối cao này là ngọn cờ đoàn kết, là sức mạnh dân tộc và là nguyên tắc bất di bất dịch của cách mạng Việt Nam. Đó cũng là nguyên tắc bất biến trong tư tưởng Hồ Chí Minh để Người tìm ra những phương pháp để thực hiện nguyên tắc đó trong chiến lược đại đoàn kết dân tộc của mình.
Như vậy, độc lập, tự do là ngọn cờ đoàn kết và là mẫu số chung để quy tụ các tầng lớp, giai cấp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo vào trong Mặt trận. Lấy lợi ích tối cao của dân tộc gắn với lợi ích của các tầng lớp nhân dân lao động làm cơ sở. Đó là tổ quốc độc lập, thống nhất, nhân dân tự do, hạnh phúc, dân giàu nước mạnh. Vấn đề còn lại là ở chỗ, phải làm thế nào để tất cả mọi người thuộc bất cứ giai tầng nào, lực lượng nào trong Mặt trận cũng phải đặt lợi ích tối cao đó lên trên hết, trước hết. Bởi lẽ lợi ích tối cao được đảm bảo thì lợi ích cơ bản của mỗi bộ phận, mỗi người mới được thực hiện.
Trên cơ sở lợi ích tối cao của dân tộc, những quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân cũng được Hồ Chí Minh kết tinh vào tiêu chí của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là độc lập, tự do, hạnh phúc. Các tiêu chí này được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh cụ thể hóa trong từng lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội… phù hợp với mọi tầng lớp, từng đối tượng trong mỗi thời kỳ lịch sử.
– Thứ ba, Mặt trận dân tộc phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững.
Mặt trận dân tộc thống nhất là tổ chức chính trị – xã hội rộng lớn của cả dân tộc, bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp, đảng phái, dân tộc, tôn giáo khác nhau, với nhiều lợi ích khác nhau. Do vậy, hoạt động của Mặt trận dân tộc thống nhất phải theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Nếu như nét nổi bật của tổ chức đảng là ở tính thống nhất chính trị chặt chẽ, vì Đảng là đội tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân, thì nét nổi bật của tổ chức mặt trận là ở tính xã hội rộng rãi, tập hợp mọi lực lượng, giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thành phần xã hội trong hình thức một liên minh chính trị. Chỉ có hiệp thương dân chủ mới giữ được sự tồn tại của liên minh một cách lành mạnh, thực chất. Hiệp thương dân chủ chính là quá trình thảo luận, bàn bạc, trao đổi từ rất nhiều sự khác biệt, thậm chí đối lập nhau để đi tới cùng thống nhất về một hay một số vấn đề, một chủ trương, chính sách do Mặt trận đề xướng.
Hiệp thương, tự nó đã nói nên tính chất bình đẳng, bao hàm sự nhân nhượng, thậm chí không loại trừ cả sự thỏa hiệp khi cần thiết, theo đúng nghĩa tích cực của khái niệm này. Ở khía cạnh khác, hiệp thương cũng là sự thể hiện của văn hóa dân chủ. Trong hiệp thương dân chủ thì hiệp thương là cách thức, phương thức, còn dân chủ vừa là tiền đề vừa là mục tiêu, mục đích. Hiệp thương dân chủ thực chất cũng là công tác dân vận, công tác vận động quần chúng theo đường lối, quan điểm của Đảng. Đây cũng chính là yêu cầu lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận phải đạt tới, tức là đảm bảo sự thành thật, tin cậy, là tôn trọng, là không mang tính quyền uy để phối hợp thống nhất hành động nhằm tăng cường sự đoàn kết, sự đồng thuận trong xã hội và nhân dân.
Khi có những lợi ích riêng biệt không phù hợp, Mặt trận sẽ giải quyết bằng việc nêu cao lợi ích chung của dân tộc, bằng sự vận động hiệp thương dân chủ, tạo ra nhận thức ngày càng đúng đắn hơn cho mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Nguyên tắc hiệp thương dân chủ đòi hỏi tất cả mọi vấn đề của Mặt trận đều phải được đem ra để tất cả các thành viên cùng nhau bàn bạc công khai, để đi đến nhất trí, loại trừ mọi sự áp đặt hoặc dân chủ hình thức. Đảng là lực lượng lãnh đạo Mặt trận, nhưng cũng là một thành viên của Mặt trận. Do vậy, tất cả mọi chủ trương, chính sách của mình, Đảng phải có trách nhiệm trình bày trước Mặt trận, cùng với các thành viên khác của Mặt trận bàn bạc, hiệp thương dân chủ để tìm kiếm các giải pháp tích cực và thống nhất hành động, hướng phong trào quần chúng thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã vạch ra.
Để thực hiện nguyên tắc hiệp thương dân chủ phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích dân tộc và lợi ích giai cấp, lợi ích chung và lợi ích riêng, lợi ích lâu dài và lợi ích trước mắt… Phải làm cho tất cả các thành viên trong Mặt trận thấm nhuần lợi ích chung, lợi ích tối cao của dân tộc, phải đặt lợi ích chung lên trên hết, trước hết. Những lợi ích chính đáng phù hợp với lợi ích chung của đất nước và dân tộc phải được tôn trọng. Ngược lại, những lợi ích bộ phận không phù hợp sẽ dần dần được giải quyết cùng với tiến trình chung của cách mạng, thông qua lợi ích chung, với sự nhận thức ngày càng đúng đắn hơn của mỗi người, mỗi bộ phận về mối quan hệ giữa lợi ích chung và lợi ích riêng. Trong quá trình hoạt động, Mặt trận cần quan tâm xem xét, giải quyết thỏa đáng, thấu tình đạt lý mối quan hệ lợi ích giữa các thành viên bằng việc thực hiện nghiêm túc nguyên tắc hiệp thương dân chủ.
Giải quyết đúng đắn mối quan hệ lợi ích trong Mặt trận dân tộc thống nhất sẽ góp phần củng cố sự bền chặt, tạo sự đồng thuận, nhất trí cao và thực hiện được mục tiêu: “Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”. Đồng thời, đó cũng là cơ sở để mở rộng khối đại đoàn kêt, lôi kéo thêm các lực lượng khác vào Mặt trận dân tộc thống nhất.
– Thứ tư, Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúo đỡ nhau cùng tiến bộ.
Giữa các thành viên của khối đại đoàn kết dân tộc, bên cạnh những điểm tương đồng vẫn có những điểm khác nhau cần phải bàn bạc để đi đến nhất trí; bên cạnh những nhân tố tích cực vẫn có những nhân tố tiêu cực cần phải khắc phục. Để giải quyết vấn đề này, một mặt, Hồ Chí Minh nhấn mạnh phương châm “cầu đồng tồn dị”, lấy cái chung để hạn chế cái riêng, cái khác biệt; mặt khác, Người nêu rõ: “Đoàn kết phải gắn với đấu tranh, đấu tranh để tăng cường đoàn kết. Người thường xuyên căn dặn phải khắc phục tình trạng đoàn kết xuôi chiều, phải nêu cao tinh thần tự phê bình và phê bình để biểu dương mặt tốt, khắc phục mặt chưa tốt, củng cố đoàn kết nội bộ. Người viết: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất trí. Đoàn kết thật sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân. Tóm lại, muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì toàn dân cần đoàn kết lâu dài, đoàn kết thực sự và cùng nhau tiến bộ”. Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh, trong quá trình xây dựng, củng cố và phát triển, Đảng ta và Mặt trận dân tộc thống nhất luôn đấu tranh chống khuynh hướng hẹp hòi, một chiều, chống coi nhẹ việc tranh thủ tất cả những lực lượng có thể tranh thủ được; đồng thời chống khuynh hướng đoàn kết mà không có đấu tranh đúng mức, đoàn kết một chiều, vô nguyên tắc trong khối đại đoàn kết dân tộc. “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta”.
4. Những kinh nghiệm trong xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất
a. Xác định đúng kẻ thù, sắp xếp đúng bạn đồng minh
Muốn có chính sách mặt trận đúng đắn, trước hết phải xác định đúng kẻ thù cụ thể, trước mắt. Điều đó đòi hỏi phải có lập trường giai cấp vững vàng, nhãn quan chính trị sâu sắc, nhạy bén. Trong đấu tranh cách mạng, không thể chỉ nêu ra kẻ thù chung chung, mà phải chỉ rõ kẻ thù cần phải đánh đổ trong từng giai đoạn chiến lược, có khi trong từng thời kỳ của một giai đoạn. Có như vậy mới tập trung được toàn bộ lực lượng cách mạng đánh đổ chúng.
Trong thời kỳ 1945-1946, công tác mặt trận lúc này hết sức phức tạp, nhưng phong phú và sáng tạo. Cùng một lúc cách mạng nước ta phải đối phó với nhiều kẻ thù, nhưng Đảng đã đánh giá đúng các loại kẻ thù, xác định đúng kẻ thù chính, để có sách lược và phương pháp đấu tranh phù hợp, tạm thời hoà hoãn với kẻ thù này, phân hoá, cô lập kẻ thù kia, tránh thế bất lợi phải chống với nhiều kẻ thù cùng một lúc, để tǎng thêm sức mạnh giành thắng lợi. Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã sáng suốt chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất không chỉ của dân tộc ta mà của cả loài người tiến bộ là đế quốc Mỹ, nên đã hình thành được ba tầng mặt trận: ở trong nước, ở Đông Dương và trên thế giới, tạo ra sức mạnh để giành thắng lợi trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước.
Trong công tác mặt trận, phải đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân và quan điểm dân tộc đúng đắn. Vì trong dân tộc có nhiều giai cấp, nên Đảng phải đánh giá đúng thái độ chính trị của các giai cấp và tầng lớp xã hội khác nhau để sắp xếp đúng đắn vị trí các lực lượng trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vai trò lãnh đạo, lực lượng nòng cốt, bạn đồng minh lâu dài và gần gũi, bạn đồng minh tạm thời, v.v..
Thực hiện tư tưởng Hồ Chí Minh về Mặt trận dân tộc thống nhất, Đảng ta xác định rõ vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, vai trò nòng cốt của liên minh công – nông, vị trí quan trọng của tầng lớp trí thức, tiểu tư sản và ra sức tập hợp đông đảo lực lượng về phía cách mạng, đồng thời đánh giá cao truyền thống yêu nước của mọi tầng lớp nhân dân. Đảng đã lôi cuốn giai cấp tư sản dân tộc, một bộ phận hoặc từng cá nhân xuất thân từ giai cấp phong kiến địa chủ có tinh thần yêu nước tham gia cách mạng giải phóng dân tộc.
Trong giai đoạn cách mạng dân tộc dân chủ tranh thủ mọi khả nǎng có thể tranh thủ nhằm tǎng cường mặt trận dân tộc rộng rãi để chống đế quốc và tay sai. Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta tiếp tục lắng nghe, tìm hiểu quan điểm, tư tưởng và thái độ chính trị của các giai cấp, các tầng lớp để kịp thời đề ra những chủ trương chính sách đúng đắn, những hình thức tổ chức sát hợp để tập hợp lực lượng đông đảo, nhằm củng cố khối đoàn kết dân tộc, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
b. Giải quyết đúng đắn các mối quan hệ trong nội bộ mặt trận
– Mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp
Mặt trận là tổ chức tập hợp lực lượng dân tộc chống đế quốc xâm lược và xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Nó bao gồm nhiều giai cấp, tầng lớp được tập hợp, đoàn kết trên cơ sở chương trình hành động chung. Các giai cấp trong mặt trận đều thống nhất về lợi ích chung của dân tộc. Đối với giai cấp công nhân, lợi ích chung của dân tộc và lợi ích riêng của giai cấp là nhất trí. Nhưng đối với các giai cấp khác, thì lợi ích riêng của giai cấp và lợi ích chung của dân tôc có mặt nhất trí và có mặt không nhất trí. Trong thời kỳ 1936-1939, Đảng nêu ra mục tiêu đấu tranh đòi cải thiện dân sinh, dân chủ, chống chủ nghĩa phátxít, chống chiến tranh; trong thời kỳ 1939-1945 là đấu tranh chống Nhật, Pháp, giành độc lập dân tộc; trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước đã có lúc Đảng nêu ra mục tiêu trước mắt tranh đấu cho miền Nam Việt Nam, hoà bình, trung lập, v.v.. Cương lĩnh chung của Mặt trận đã thể hiện đúng mối quan hệ giữu lợi ích của toàn dân tộc với lợi ích của từng giai cấp. Nếu chúng ta vượt ra khỏi giới hạn mục tiêu đó là đã phạm phải sai lầm tả khuynh. Ngược lại nếu như ta không đấu tranh kiên quyết để thực hiện những mục tiêu và nhiệm vụ đã đề ra thì phạm phải sai lầm hữu khuynh. Do đó, chúng ta cần xác định rõ ràng mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp để tránh phạm phải những sai lầm không đáng có trong quá trình xây dựng Mặt trận.
– Mối quan hệ giữa liên minh công nông và mặt trận.
Đây là mối quan hệ lớn nhất trong công tác mặt trận. Đảng ta đã giải quyết thành công mối quan hệ này thông qua việc giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhiệm vụ chống đế quốc và chống phong kiến. Trong khi nhấn mạnh đoàn kết dân tộc, không bao giờ Đảng coi nhẹ vai trò nền tảng của mặt trận là khối liên minh công nông, vì liên minh công nông có vững chắc mới có thể mở rộng được mặt trận; ngược lại, làm tốt công tác mặt trận càng làm cho liên minh công nông thêm vững chắc. Chỉ nhấn mạnh liên minh công nông mà không chú ý tranh thủ các giai cấp, tầng lớp khác là hẹp hòi, tả khuynh. Ngược lại, chỉ chú ý vận động các giai cấp, tầng lớp khác mà không chú ý củng cố liên minh công nông là phạm sai lầm hữu khuynh.
Khi cần tập trung lực lượng để giải quyết những nhiệm vụ cấp bách nhất của cách mạng, Đảng đã giải quyết đúng mức quyền lợi của công nông và của các giai cấp, các tầng lớp tham gia mặt trận.
– Mối quan hệ giữa tranh thủ tầng lớp trên đi đôi với phát động quần chúng cơ bản.
Đây là mối quan hệ phức tạp đòi hỏi phải có giải pháp khéo léo. Về bản chất giai cấp, tầng lớp trên đối lập với quần chúng cơ bản của cách mạng là công nông. Nhưng Đảng có thể và cần phải tranh thủ tầng lớp trên, nhất là những cá nhân có uy tín trong quần chúng, đó là điều cần thiết và có lợi cho việc phát động quần chúng cơ bản. Nhưng phong trào vững chắc phải là phong trào cách mạng của quần chúng cơ bản. Chỉ khi nào phong trào đó mạnh mới bảo đảm tranh thủ được tầng lớp trên. Đồng chí Nguyễn Vǎn Cừ đã phân tích: muốn lôi cuốn được tầng lớp trên tham gia đấu tranh vì quyền lợi của dân tộc thì điều “cốt yếu là do lực lượng đấu tranh của quần chúng”.
Đảng đã chỉ rõ, phải tranh thủ tầng lớp trên có ảnh hưởng đối với quần chúng ở vùng dân tộc ít người. Mấu chốt của vấn đề đoàn kết các dân tộc anh em là phải thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc, làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp về kinh tế và vǎn hoá, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lao động, chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc.
Để đoàn kết đồng bào theo các tôn giáo, Đảng đưa ra chính sách tự do tín ngưỡng và giáo dục quần chúng nhân dân lao động phân biệt tín ngưỡng với những hoạt động lợi dụng tôn giáo để chống lại chính sách và pháp luật của Nhà nước. Phải nâng cao trình độ giác ngộ chính trị của giáo dân, làm cho họ phân biệt rõ địch – ta, ra sức đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần. Đối với tầng lớp trên trong tôn giáo, Đảng chủ trương đoàn kết với họ trên tinh thần yêu nước chân chính và giúp đỡ họ hiểu biết đường lối, chính sách của cách mạng, vận động họ cùng với đồng bào theo các tôn giáo làm những việc có ích cho Tổ quốc, chống lại mọi âm mưu chia rẽ dân tộc và phá hoại của kẻ thù.
– Mối quan hệ giữa đoàn kết và đấu tranh
Đoàn kết một chiều, thiếu đấu tranh trong thực tế dẫn đến phá vỡ khối đoàn kết, thủ tiêu mặt trận. Đấu tranh vượt quá cương lĩnh là phạm sai lầm tả khuynh, trái lại, thiếu đấu tranh để thực hiện cương lĩnh là hữu khuynh, dẫn đến mất đoàn kết.
c. Nâng cao sự lãnh đạo của đảng trong mặt trận
Một vấn đề có tính nguyên tắc là không ngừng tǎng cường sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận dân tộc thống nhất, phải giữ vững đường lối chính trị, mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng, chống mọi khuynh hướng hạ thấp vai trò của Đảng, đòi chia quyền lãnh đạo trong mặt trận, xa rời phương hướng, mục tiêu chiến lược của cách mạng. Mấu chốt để giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng trong mặt trận là hoàn chỉnh đường lối cách mạng và không ngừng củng cố khối liên minh công nông.
Trong các thời kỳ cách mạng, Đảng ta phân tích đúng đắn các mối quan hệ giai cấp để đề ra một cương lĩnh chung của mặt trận nhằm tập hợp thật rộng rãi các giai cấp, các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp, các cá nhân yêu nước trong mặt trận. Các giai cấp, các tầng lớp trong nhân dân đi theo Đảng chẳng những vì Đảng có đường lối đúng, mà còn vì Đảng có lực lượng. Vì vậy, phải không ngừng củng cố khối liên minh công nông. Đảng ta rất coi trọng mặt trận, nhưng trước hết phải xây dựng khối liên minh công nông vững mạnh. Liên minh công nông bao giờ cũng là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất.
Đảng cũng là một tổ chức chính trị trong mặt trận, nhưng mặt trận thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, vì Đảng có đường lối chính trị đúng, gồm những người giác ngộ chính trị sâu sắc, tự nguyện, hết lòng phục vụ cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, tiền phong gương mẫu trong mọi phong trào cách mạng của quần chúng; vì Đảng biết tạo ra sự hiểu biết, tin cậy lẫn nhau, biết phối hợp hành động giữa Đảng và các thành viên khác trong mặt trận. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Đảng “phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thực nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hàng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và nǎng lực lãnh đạo của Đảng thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo”. Để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong mặt trận, phải luôn luôn tránh hai khuynh hướng lệch lạc là: cô độc, hẹp hòi, coi nhẹ tranh thủ các lực lượng có thể tranh thủ; hoặc đoàn kết một chiều, đoàn kết mà không đấu tranh đúng mức với những tư tưởng và việc làm sai trái của các thành viên trong mặt trận.
Về phần mình, Đảng không ngừng phấn đấu nâng cao nǎng lực lãnh đạo bằng sự hoàn thiện đường lối chiến lược, đổi mới chủ trương, sách lược cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ và cải tiến phong cách, phương thức làm việc trong mặt trận, chống tác phong quan liêu, mệnh lệnh, thiếu kiên trì giáo dục, thuyết phục. Sự cố kết giữa Đảng ta với Mặt trận Việt Minh, Mặt trận Liên Việt, Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước trước đây, cũng như với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam hiện nay trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một sức mạnh không gì có thể phá vỡ nổi. Trong công cuộc đổi mới hiện nay, Đảng ta không ngừng tự đổi mới, nhằm nâng cao nǎng lực lãnh đạo cách mạng nước ta trong giai đoạn mới. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ngày càng mở rộng, tập hợp mọi thành phần, lực lượng của đất nước, tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và vǎn minh tiến lên chủ nghĩa xã hội.
5. Các hình thức của Mặt trận dân tộc thống nhất qua các thời kì
a. Trong suốt chiều dài lịch sử
Hội phản đế đồng minh (18/11/1930 – 3/1935)
Thực tiễn phong trào cách mạng trong cả nước sau khi Đảng ra đời, với đỉnh cao là Xô viết Nghệ Tĩnh đã giành được nhiều thắng lợi to lớn. Tuy nhiên, trong phong trào đấu tranh đã xuất hiện hiện tượng mất đoàn kết, phân biệt đối xử với các giai tầng khác ngoài công – nông. Vì vậy, để khắc phục thực trạng này và củng cố, tăng cường hơn nữa khối đoàn kết toàn dân, ngày 18/11/1930 Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra chỉ thị thành lập Hội Phản đế đồng minh – hình thức đầu tiên của Mặt trận dân tộc thống nhất. Hội phản đế đồng minh đã tạo được phong trào phản đế mạnh mẽ trong cả nước, có ảnh hưởng sâu rộng trong các tầng lớp quần chúng. Đồng thời sự ra đời của Hội phản đế đồng minh cũng đánh dấu sự trưởng thành về nhận thức và chỉ đạo thực tiễn của đảng trong quá trình tổ chức và xây dựng mặt trận dân tộc thống nhất.
Phản đế liên minh (3/1935 – 10/1936)
Sau thời kỳ cách mạng (1930 – 1935) gặp nhiều khó khăn bởi chính sách đàn áp của Pháp, tháng 3/1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất được tổ chức và thông qua nghị quyết về công tác Phản đế liên minh. Chủ trương thành lập Phản đế liên minh là để tập hợp tất cả các lực lượng yêu nước, cách mạng toàn Đông Dương. Qua Điều lệ của Phản đế liên minh, có thể thấy, đây là tổ chức tập hợp lực lượng rộng rãi và linh hoạt hơn Hội Phản đế đồng minh.
Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế (10/1936 – 6/1938)
Để khắc phục những sai lầm, khuyết điểm trong công tác tập hợp lực lượng cách mạng, xây dựng khối liên minh giữa các giai tầng ở các thời kỳ trước, tháng 10/1936, Đảng đã quyết định thành lập Mặt trận thống nhất nhân dân Phản đế. Khác với các Mặt trận trước đó, Mặt trận thống nhất nhân dân phản đế chủ trương bày tỏ sự đồng minh với nhân dân Pháp – những người yêu chuộng hòa bình, công lý và chủ trương “tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương”. Đồng thời mặt trận cũng kêu gọi và ban hành một số quyền tự do cơ bản cho nhân dân Đông Dương và hô hào “Tất cả các đảng phái chính trị, tất cả các tầng lớp nhân dân Đông Dương tham gia Mặt trận nhân dân Đông Dương”.
Mặt trận dân chủ Đông Dương (6/1938 – 11/1939)
Sang năm 1938, tình hình thế giới có sự thay đổi quan trọng, Mặt trận nhân dân Pháp (nòng cốt là Đảng Cộng sản Pháp) lên cầm quyền với nhiều chính sách tiến bộ. Tình hình trong nước cũng có nhiều thay đổi lớn, sau những năm tháng đấu tranh khó khăn, gian khổ cùng nhiều hy sinh mất mát, nên yêu cầu cấp thiết nhất của toàn dân lúc này là đòi các quyền tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình…Vì vậy, để phù hợp với điều kiện lịch sử mới, tháng 6/1938 Đảng ta đã quyết định thành lập Mặt trận Dân chủ Đông Dương. Với nhiệm vụ nhằm tập hợp đoàn kết rộng rãi công nhân, nông dân, tiểu thương, tiểu chủ tư sản nhỏ, các đảng phái cải lương, những người Pháp tiến bộ ở Đông Dương để chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh, đòi tự do, cơm áo, hoà bình cho nhân dân.
Mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương (11/1939 – 5/1941)
Ngày 01/9/1939, chiến tranh thế giới lần thứ hai bùng nổ, thực dân Pháp đã phát xít hóa bộ máy chính quyền, đặt Mặt trận Dân chủ Đông Dương ngoài vòng pháp luật và thẳng tay đàn áp. Thực tiễn này làm cho vấn đề sống còn của các dân tộc Đông Dương được đặt ra hết sức cấp thiết. Để phù hợp với tình hình mới và đưa cách mạng tiếp tục tiến lên, tháng 11/1939, Đảng đã quyết định thành lập Mặt trận Dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương thay cho Mặt trận Dân chủ Đông Dương nhằm liên hiệp tất cả các dân tộc Đông Dương, các giai tầng, đảng phái, cá nhân có tinh thần phản đế muốn giải phóng dân tộc chống đế quốc, bè lũ tay sai của chúng và vua chúa bản xứ phản bội quyền lợi dân tộc.Bởi vậy các tổ chức phản đế phát triển nhanh chóng dưới nhiều hình thức bí mật và công khai.
Việt Nam độc lập đồng minh hội, gọi tắt là Việt Minh (19/5/1941 – 3/1951)
Tháng 9/1940, Nhật vào đánh chiến Đông Dương, thực dân Pháp đầu hàng và làm tay sai cho Nhật. Trước sự thay đổi nhanh chóng của tình tình, Đảng đã quyết định thành lập Việt nam Độc lập đồng minh hội – gọi tắt là Việt Minh (19/5/1941). Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh đã thu hút được mọi giới đồng bào yêu nước, từ công nhân, nông dân, trí thức, tiểu tư sản đến tư sản dân tộc, phú nông và một số địa chủ nhỏ có tinh thần yêu nước, đưa tới cao trào đánh Pháp, đuổi Nhật của toàn dân ta trong những năm 1941-1945. Mặt trận Việt Minh là một trong những nhân tố cơ bản bảo đảm cho cách mạng thành công. Dưới ngọn cờ chỉ đạo của Mặt trận Việt Minh nhân dân ta đã thành công trong Cách mạng Tháng Tám, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhà nước cộng hòa dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam á, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam, gọi tắt là hội Liên Việt (29/5/1946 – 3/1951)
Cách mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà vừa mới ra đời đã đương đầu với giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm. Để đoàn kết hơn nữa mọi giai tầng trong xã hội qua đó phát huy thuận lợi, đẩy lùi khó khăn, đưa cách mạng tiếp tục tiến lên, tháng 5/1946, Đảng đã chỉ đạo thành lập Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam – gọi tắt là Liên Việt. Sự tồn tại và phát triển của Mặt trận Liên Việt và Việt Minh đã thực sự trở thành chỗ dựa vững chắc cho chính quyền cách mạng trong cuộc đấu tranh với thù trong, giặc ngoài. Với mục tiêu đoàn kết tất cả các đảng phái và đồng bào yêu nước trong toàn quốc tham gia vào mặt trận. Không phân biệt giai cấp, tôn giáo, xu hướng chính trị, chủng tộc để làm cho nước Việt Nam độc lập – thống nhất – dân chủ – phú cường. Việc thành lập hội Liên Việt là sự phát triển của Mặt trận Dân tộc thống nhất, trong đó Mặt trận Việt Minh là một bộ phận của hội Liên Việt, Mặt trận Việt Minh và Liên Việt ngày càng sát cánh bên nhau, đẩy mạnh mọi hoạt động, xây dựng tổ chức, phát triển lực lượng nhằm mục tiêu chung là kháng chiến thắng lợi, giành độc lập dân tộc. Việc thống nhất Việt Minh và Liên Việt trở thành yêu cầu khách quan của kháng chiến và sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta nhằm củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân.
Mặt trận Liên Việt (3/3/1951 – 9/1955)
Sang năm 1951, cuộc trường kỳ kháng chiến của nhân dân ta đã bước sang giai đoạn quyết liệt, việc thống nhất các hình thức Mặt trận để đoàn kết toàn dân, tập trung mọi lực lượng đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi cuối cùng trở thành yêu cầu cấp bách. Từ thực tiễn này, dưới sự chỉ đạo của Đảng, Mặt trận Việt Minh và Hội Liên Việt đã hợp nhất thành Mặt trận Liên Việt. Với mục tiêu tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, vận động các giới đồng bào chấp hành tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước, đập tan mọi hoạt động tàn bạo và âm mưu thâm độc của kẻ thù, thực hiện giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất nhằm động viên khí thế cách mạng của nông dân, tăng cường công nông, góp phần củng cố Mặt trận Dân tộc Thống nhất. Quá trình kháng chiến toàn dân, toàn diện làm cho Mặt trận Dân tộc Thống nhất không ngừng lớn mạnh, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tạo nên sức mạnh vật chất và tinh thần đưa cuộc kháng chiến đến thắng lợi. Làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, lập lại hòa bình ở Đông Dương, đưa miền Bắc tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Mặt trận tổ quốc Việt Nam (10/9/1955 – 2/1977)
Sau hiệp định Giơ-ne-vơ, đất nước bị chia cắt làm hai miền, miền Bắc được giải phóng, miền Nam nằm dưới sự thống trị của Mỹ. Cách mạng Việt Nam có hai nhiệm vụ chiến lược là: thực hiện cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam, tiến tới thống nhất nước nhà.Trước bối cảnh lịch sử mới, ngày 10/9/1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã ra đời với mục đích đoàn kết mọi lực lượng trong nước để đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và các lực lượng tay sai. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã vận động các tầng lớp nhân dân ra sức thi đua yêu nước, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, cải tạo và xây dựng miền Bắc thành cơ sở vững mạnh cho cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà
Mặt trận dân tộc giải phóng miền nam Việt Nam (20/12/1960 – 2/1977)
Trong cao trào đấu tranh quyết liệt của đồng bào miền Nam, đặc biệt là phong trào đồng khởi, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam ra đời (20/12/1960) nhằm đoàn kết toàn thể đồng bào miền Nam trong cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm lược và nguỵ quyền để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Mặt trận Dân tộc giải phóng không ngừng củng cố và mở rộng khối đoàn kết dân tộc, tổ chức và động viên đồng bào và chiến sĩ miền Nam đẩy mạnh đấu tranh trên cả ba mặt trận: quân sự, chính trị và ngoại giao. Ảnh hưởng của Mặt trận Dân tộc Giải phóng không ngừng được mở rộng trong các tầng lớp nhân dân miền Nam và uy tín của Mặt trận đã được nâng cao trên trường quốc tế.
Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam (20/4/1968 – 2/1977)
Bước sang cuối những năm 60 của thế kỷ XX, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ đang diễn ra ác liệt với không ít hy sinh mất mát, để quy tụ các phong trào đấu tranh của sinh viên, học sinh, trí thức, đồng bào các tôn giáo, thương gia, nhân sĩ tại các thành thị miền Nam, Đảng đã chỉ đạo thành lập Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam. Trên cơ sở mục tiêu chung là đánh đuổi Mỹ, giải phóng miền Nam, bảo vệ và xây dựng miền Bắc tiến tới thống nhất nước nhà, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam đã hợp tác chặt chẽ, hỗ trợ nhau trong công tác tập hợp, đoàn kết mọi giai tầng để tạo nên sức mạnh vô địch cho kháng chiến, chính sức mạnh này đã góp phần làm nên thắng lợi mùa xuân năm 1975.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (4/2/1977 – nay)
Sau khi nước nhà được hoàn toàn độc lập, cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội với 2 nhiệm vụ chiến lược là: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để đáp ứng yêu cầu của cách mạng giai đoạn mới, Đại hội Mặt trận Dân tộc thống nhất họp từ 31/1 đến 4/2/1977 tại thành phố Hồ Chí Minh đã quyết định: thống nhất Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng Dân tộc, Dân chủ và Hoà bình Việt Nam thành một tổ chức duy nhất trên đất nước ta lấy tên là Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Sự ra đời của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là mốc đánh dấu bước phát triển của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam trong giai đoạn mới của cách mạng. Đây là một hình thức tổ chức của Mặt trận Dân tộc Thống nhất Việt Nam nhằm đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân; phát huy nhiệt tình cách mạng và tinh thần làm chủ của nhân dân; động viên nhân dân thi đua lao động sản xuất, tích cực tham gia công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Dưới sự lãnh đạo sang suốt của Đảng và Mặt trận nhân dân ta đã “đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào”, làm nên đại thắng mùa Xuân 1975,giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước, hoàn thành cách mạng dân tộc, dân chủ, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
b. Xây dựng Mặt trận dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
– Cơ sở khách quan của chính sách đoàn kết dân tộc và xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn cách mạng hiện nay
Sau khi hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nước ta chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ tịch Hồ Chí Minh nói: “… chủ nghĩa xã hội chỉ có thể xây dựng được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu người”. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng đã khẳng định khối đại đoàn kết toàn dân là nguồn sức mạnh vô tận bảo đảm hoàn thành những nhiệm vụ lịch sử trong giai đoạn mới. Qua đó khẳng định vai trò to lớn của Mặt trận dân tộc thống nhất không chỉ trong kháng chiến chống giặc ngọai xâm, mà còn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Nếu như trước đây, giải phóng đất nước, giành độc lập dân tộc đã là sự nghiệp của toàn dân, thì ngày nay xây dựng đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa để mọi người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc lại càng phải là sự nghiệp của toàn dân. Chủ nghĩa xã hội mà nhân dân ta đã và đang xây dựng là một xã hội mà đất nước và con người thật sự được giải phóng và làm chủ trên cơ sở nền kinh tế phát triển cao và nền vǎn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Mục tiêu và nhiệm vụ này hoàn toàn phù hợp với nguyện vọng và lợi ích cơ bản, lâu dài của tuyệt đại bộ phận nhân dân ta. Là người Việt Nam, ai cũng mong muốn tham gia xây dựng đất nước vǎn minh, giàu mạnh, sánh vai cùng các nước trong thế giới hiện đại.
– Mặt trận dân tộc thống nhất trong hệ thống chính trị – xã hội của nước ta hiện nay.
Mặt trận dân tộc thống nhất bao gồm Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội được tổ chức và hoạt động theo một cơ chế bảo đảm đầy đủ quyền lực của nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là một trong những chỗ dựa vững chắc của Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở hoàn thiện dần chủ trương đường lối của Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc và vai trò, vị trí của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Đại hội lần thứ X của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định những quan điểm cơ bản của Đảng về Mặt trận dân tộc thống nhất Việt Nam như sau: “Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong việc tập hợp, vận động, đoàn kết rộng rãi các tầng lớp nhân dân; đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, nguyện vọng chính đáng của nhân dân; đưa các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các chương trình kinh tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh thành hoạt động thực tiễn sinh động trong cuộc sống của nhân dân”.
Trong hệ thống chính trị – xã hội của nước ta, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức xã hội rộng lớn nhất, vừa có tính liên hiệp rộng rãi, vừa có tính quần chúng sâu sắc. Vì vậy, Mặt trận là đại diện chung cho quyền làm chủ của nhân dân, là sự nối liền các tầng lớp nhân dân rộng rãi với Đảng, là chỗ dựa của Nhà nước như Điều 9 của Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1992) đã thể chế hoá: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
– Nhiệm vụ của Mặt trận dân tộc thống nhất trong giai đoạn hiện nay
Mặt trận dân tộc thống nhất đã đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cách mạng nước ta. Đó không những là một nhân tố quan trọng trong thành công của cách mạng Việt Nam trước đây,mà còn là một vũ khí chính trị sắc bén để nhân dân ta phát huy sức mạnh tổng hợp trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. Do đó mà Đảng ta xác định nhiệm vụ trọng yếu hàng đầu của mặt trận là: “Thực hiện tốt liên minh công nông, đoàn kết chặt chẽ trí thức và các tầng lớp nhân dân lao động khác, đoàn kết các dân tộc, các tôn giáo, các nhân sĩ… cùng những người Việt Nam hiện đang sống ở nước ngoài muốn góp phần xây dựng đất nước, nhằm mục tiêu chung là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, góp phần giữ gìn hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới”.
Bên cạnh việc thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo, Mặt trận đã tiếp tục mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân; tích cực vận động nhân dân phát huy tinh thần chủ động sáng tạo, tự lực, tự cường vươn lên, khai thác mọi tiềm năng và các điều kiện thuận lợi, khắc phục khó khăn, thi đua lao động sản xuất kinh doanh, học tập, công tác; tích cực tham gia xây dựng Đảng, chính quyền, giữ vững chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, phát triển tình đoàn kết hữu nghị với các nước trên thế giới.Ngày nay, bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, Mặt trận thực hiện chủ trương đoàn kết rộng rãi mọi người Việt Nam; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân ở trong nước và người Việt Nam ở nước ngoài; xoá bỏ mọi mặc cảm, định kiến; không phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp; tôn trọng những ý kiến khác nhau không trái với lợi ích của dân tộc; đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung, xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau vì sự ổn định chính trị và đồng thuận xã hội.
Các cuộc vận động, các phong trào thi đua yêu nước do Mặt trận phát động đã được đồng bào ta ở trong và ngoài nước, tích cực hưởng ứng, tham gia đóng góp công sức, tiền của, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, xoá đói giảm nghèo, giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” ra đời thực sự hợp ý Đảng, lòng dân, ngày càng được nhân dân các khu dân cư trên cả nước nhiệt tình hưởng ứng. Cuộc vận động đã thiết thực góp phần tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân ở khu dân cư, đổi mới công tác Mặt trận và trở thành nhiệm vụ chung của hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, Uỷ ban Mặt trận các cấp chủ trì. Đến nay trên cả nước đã có 70.008 khu dân cư được công nhận khu dân cư tiên tiến; 38.443 khu dân cư văn hoá; 11.747.367 gia đình được công nhận gia đình văn hoá. Cuộc vận động “Ngày vì người nghèo” đã được Mặt trận các cấp chủ động thực hiện tốt vai trò phối hợp và thống nhất hành động với các thành viên; phối hợp với chính quyền và các cơ quan thông tấn, báo chí, các phương tiện truyền thông tăng cường tuyên truyền, động viên các điển hình cá nhân và tập thể tích cực tham gia cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, Tháng cao điểm “Vì người nghèo” và Chương trình “Nối vòng tay lớn” hàng năm để xây dựng Quỹ “Vì người nghèo.
Phát huy các kết quả đã đạt được, trong thời gian tới Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các tổ chức thành viên thống nhất hành động, quyết tâm phấn đấu thực hiện năm nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện đa dạng hóa các hình thức vận động, tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Thứ hai, động viên các tầng lớp nhân dân hăng hái tham gia phong trào thi đua yêu nước, đẩy mạnh các cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”, cuộc vận động “Ngày vì người nghèo”, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cuộc vận động “Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam”… góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội, đảm bảo quốc phòng, an ninh.
Thứ ba, vận động nhân dân phát huy quyền làm chủ và giữ gìn kỷ cương, phép nước, tích cực tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch vững mạnh; nâng cao vai trò và trách nhiệm của Uỷ ban Mặt trận và các tổ chức thành viên trong việc chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của nhân dân; thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội gắn với yêu cầu tăng cường sự đồng thuận xã hội.
Thứ tư, mở rộng hoạt động đối ngoại nhân dân và tăng cường đoàn kết, hữu nghị, hợp tác giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước trên thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Cuối cùng là kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ, đổi mới nội dung, phương thức và nâng cao hiệu quả hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp.
Bên cạnh đó Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, tại chương II, Điều 6 nói về trách nhiệm và quyền hạn của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong thực hiện tập hợp khối đại đoàn kết toàn dân, bao gồm:
Một là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát triển đa dạng các hình thức hoạt động, các phong trào yêu nước để tập hợp, đoàn kết mọi người Việt Nam ở trong nước và định cư ở nước ngoài, không phân biệt thành phần giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, quá khứ nhằm động viên mọi nguồn lực để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Hai là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phát huy tính tích cực của các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo để vận động nhân dân thực hiện nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá – xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước.
Ba là, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tham gia tuyên truyền, vận động người Việt Nam định cư ở nước ngoài đoàn kết cộng đồng, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, giữ gìn bản sắc văn hoá, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, giữ quan hệ gắn bó với gia đình và quê hương, góp phần xây dựng quê hương đất nước.
Để thực hiện những nhiệm vụ này và ngày càng phát huy mạnh mẽ hơn nữa vai trò của mặt trận, tǎng cường mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng thì các cấp, các ngành đều phải quán triệt và làm tốt công tác mặt trận, phê phán tư tưởng coi nhẹ mặt công tác này. Đồng thời, các cấp uỷ Đảng cần phải tǎng cường lãnh đạo và tạo điều kiện để mặt trận ngày càng làm tốt ba chức nǎng cơ bản sau:
Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục, vận động các tầng lớp nhân dân giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, nhất trí với đường lối, chính sách của Đảng, hǎng hái tham gia các phong trào cách mạng nhằm thực hiện hai mục tiêu chiến lược là mục tiêu tổng quát của thời kỳ quá độ và những mục tiêu cụ thể của chặng đường đầu mà Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã đề ra.
Thứ hai, phối hợp và thống nhất hành động giữa các tổ chức thành viên, giữa mặt trận với chính quyền từ trung ương đến cơ sở, nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân lao động, góp phần tích cực vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ ba, phản ánh nguyện vọng, ý kiến của quần chúng đối với sự lãnh đạo của Đảng và công tác quản lý của Nhà nước; đề xuất và góp phần vào việc xây dựng luật pháp và chính sách có liên quan đến các tầng lớp nhân dân; cùng các đoàn thể, các 30 thành viên tổ chức thực hiện quyền giám sát của nhân dân đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước.
Lịch sử vẻ vang 80 năm qua của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam gắn liền với những chiến công vang dội của của dân tộc ta trong các cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược và những thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc do Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo. Nhìn lại lịch sử vẻ vang của Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam, một lần nữa mỗi chúng ta lại nhận thức đầy đủ hơn về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc ngày nay. Phát huy truyền thống vẻ vang của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thực hiện tốt lời dạy của Bác Hồ mỗi cán bộ, đảng viên và mọi người Việt Nam cần nêu cao chủ nghĩa yêu nước, truyền thống đoàn kết, tinh thần năng động, sáng tạo; quyết tâm chiến thắng nghèo nàn, lạc hậu; ra sức thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
III. KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên ta có thể thấy, tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc có vai trò rất quan trọng. Trong đó, đại đoàn kết toàn dân trong Mặt trận dân tộc thống nhất giữ vai trò chủ đạo. Bởi vì, không thể hoạt động mà không có một tổ chức phù hợp, không có đường lối chiến lược đúng đắn và sự lãnh đạo tài tình. Mặt trận dân tộc thống nhất ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đó. Nó không chỉ là lời giải đáp đúng đắn cho những bài toán cách mạng vào thời điểm đó mà còn trong suốt chiều dài lịch sử. Cho đến tận ngày nay nó vẫn còn nguyên giá trị.
Như chúng ta đã biết, Mặt trận tổ quốc Việt Nam là nơi quy tụ mọi giai cấp, tầng lớp, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước trong và ngoài nước, phấn đấu vì mục tiêu chung là độc lập của dân tộc, thống nhất của tổ quốc, tự do và hạnh phúc của nhân dân. Mặt trận dân tộc được xây dựng dựa trên bốn nguyên tắc chủ yếu, đó là: Mặt trận dân tộc phải được xây dựng trên nền tảng khối liên minh công – nông – trí thức, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng; phải hoạt động dựa trên cơ sở bảo đảm lợi ích tối cao của dân tộc, quyền lợi cơ bản của các tầng lớp nhân dân;phải hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân chủ, bảo đảm đoàn kết ngày càng rộng rãi và bền vững;cuối cùng,Mặt trận dân tộc thống nhất là khối đại đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. Vận dụng triệt để tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Mặt trận dân tộc thống nhất, trên cơ sở sức mạnh đoàn kết vững bền, chúng ta đã, đang và sẽ sẵn sàng chống lại bất kỳ kẻ thù nào, sẵn sàng đương đầu với bất kỳ khó khăn nào, để đưa nước ta thoát khỏi nghèo đói, cho nhân dân ta có một cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc.
Thực tiễn cách mạng trên 80 năm qua đã minh chứng cho sức sống kì diệu và sức mạnh vĩ đại của Mặt trận dân tộc thống nhất. Đại đoàn kết toàn dân là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối chiến lược của Đảng cộng sản Việt Nam trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân cũng như trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Mặt trận dân tộc thống nhất không chỉ có vai trò to lớn trong cách mạng giải phóng dân tộc mà còn có vai trò hết sức to lớn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay. Từ trước đến nay, nhờ vận dụng linh hoạt tư tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn, Trung ương Đảng đã có nhiều chỉ thị, nghị quyết về công tác Mặt trận và các đoàn thể quần chúng, như Chỉ thị 17/CT-TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá V) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác Mặt trận và g ần đây là Nghị quyết tám của Trung ương Đảng. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều cấp uỷ đảng chưa nhận thức đúng vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong giai đoạn cách mạng mới, chưa thấy công tác Mặt trận là công tác rất quan trọng trong toàn bộ công tác cách mạng nên không ít cấp uỷ, các cơ quan chính quyền, cán bộ, đảng viên và cả các đoàn thể quần chúng còn coi nhẹ công tác Mặt trận.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, với sứ mệnh lịch sử của mình, động viên các tầng lớp nhân dân đồng tâm hiệp lực, đem hết nhiệt tình, trí tuệ và tài năng cống hiến cho sự chấn hưng đất nước.
Chúng ta quyết tâm thực hiện đầy đủ lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu:
Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết!
Thành công, thành công, đại thành công!